có nghĩa là các Ngân hàng có quy mô càng lớn thường có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn so với các Ngân hàng nhỏ.
+ Nhân tố cơ hội tăng trưởng có quan hệ cùng chiều với đòn bẩy tài chính nhưng số liệu nghiên cứu lại không có ý nghĩa về mặt thống kê, tuy nhiên giai đoạn trước khi các NHTM bị chi phối bởi Nghị định 141 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 3.000 tỷ đồng đã thể hiện được tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản qua các năm cụ thể như năm 2008 tăng 15,25% so với 2007; năm 2009 tăng 42% so với năm 2008. Có thể thấy cơ hội tăng trưởng cũng có mối tương quan với đòn bẩy tài chính nếu sự tác động của các chính sách của Nhà nước lên hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam ở mức độ thấp.
+ Nhân tố tính thanh khoản của Ngân hàng có mối tương quan ngược chiều với đòn bẩy tài chính Ngân hàng. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới về CTV Ngân hàng. Có thể nói tính thanh khoản là một yếu tố khá quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng. Một khi Ngân hàng có khả năng thanh khoản cao, an toàn và ở mức phù hợp không chỉ giúp các Ngân hàng đảm bảo chi trả theo yêu cầu bất cứ lúc nào mà không phải sử dụng nguồn vốn từ bên ngoài đồng thời tăng uy tín trong thị trường tài chính.
+ Nhân tố tài sản hữu hình cũng tác động nghịch biến lên đòn bẩy tài chính nhưng mức độ tác động khá thấp điều này có nghĩa rằng khi các NHTM gia tăng tỷ lệ nợ hay Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau sẽ không cần đến tài sản hữu hình để đảm bảo mà chỉ dựa trên quy mô hoạt động cũng như sự tín nhiệm. Trong khi đó, trong cơ cấu vốn của các công ty phi tài chính thì nhân tố tài sản hữu hình có tác động mạnh mẽ lên đòn bẩy tài chính vì chính nhân tố này là điều kiện để các công ty này gia tăng đòn bẩy tài chính. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu về CTV của các NHTM tại một số quốc gia trên thế giới.
+ Các công trình nghiên về tác động của các nhân tố lên CTV của Ngân hàng và công ty tài chính được tác giả khảo sát ở Chương 2 đều cho kết quả tỷ suất sinh lợi tác động nghịch chiều lên đòn bẩy tài chính. Kết quả phù hợp với tình hình thực tế khi các NHTM có lợi nhuận càng cao sẽ có khuynh hướng sử dụng một phần lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh và nhằm tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn. Tuy nhiên mức độ tác động của nhân tố này lên CTV Ngân hàng còn thấp do lĩnh vực Ngân hàng luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của NHNN.
5.2. Một số đề xuất
5.2.1. Đối với các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng Tóm Tắt Các Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Kết Quả Kiểm Định Các Nhân Tố Tác Động Đến Cấu Trúc Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Kết Quả Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Ctv Của Các Nhtm
- Tổng Quan Tình Hình Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Trên Thế Giới Và Tại Việt Nam Trong Giai Đoạn 2007 – 2011
- Thực Trạng Cấu Trúc Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam Trong Giai Đoạn 2007–2011
- Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Rò ràng không thể có một công thức chung để xác định CTV tối ưu cho tất các các doanh nghiệp nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng. Mỗi doanh nghiệp chỉ cần xây dựng CTV mục tiêu sao cho phù hợp với đặc điểm riêng có của doanh nghiệp mình cũng như xác định nhu cầu vốn thực sự qua từng giai đoạn. Với những kết quả có được từ mô hình nghiên cứu cũng như tìm hiểu thực trạng của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2011 (xem phần phụ lục 1), đề tài đưa ra một số đề xuất trong việc ứng dụng các kết quả đạt được như sau:
Thứ nhất, tăng quy mô của các NHTM tại Việt Nam cả về số lượng lẫn mặt chất lượng. Theo như kết quả phân tích thì nhân tố quy mô có mối tương quan đồng biến với đòn bẩy tài chính Ngân hàng. Và trong thời gian qua, các NHTM đã không ngừng nâng số lượng quy mô hoạt động ở khắp các tỉnh thành trong cả nước và với việc tăng quy mô vốn điều lệ, đảm bảo mức an toàn vốn theo chuẩn quốc tế và của Việt Nam đã làm cho một số NHTM nhỏ, có trình độ quản lý kém hiệu quả có thể dẫn đến khả năng mất an toàn vốn là rất cao. Do vậy, các NHTM tại Việt Nam cần thiết phải kiểm soát được việc tăng quy mô hoạt động của mình theo từng giai đoạn thích hợp nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nhất dòng vốn kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận cổ đông cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, ổn định tính thanh khoản. Đây là điều kiện giúp các Ngân hàng tăng sức mạnh trong kinh doanh. Trong thời gian qua, mức tăng trưởng tín dụng quá nhanh và nhanh hơn cả con số huy động vốn, điều này dẫn đến một số NHTM nhỏ đã sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau nhằm mở rộng hoạt động tín dụng làm cho hệ số an toàn vốn hết sức yếu và dễ đổ vỡ trước tác động bất lợi, đột ngột từ môi trường kinh doanh. Chính vì thế, các nhà quản trị NHTM cần xây dựng một mức an toàn vốn tối thiểu theo quy chuẩn Basel III thông qua việc: quy định mức đủ vốn tự có thực, quy định về tấm đệm vốn chống rủi ro chu kỳ kinh tế, quy định tấm đệm vốn chống rủi ro hệ thống từ sự liên thông của các thị trường. Trong điều kiện tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn như hiện nay, các NHTM nên sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý tránh việc đầu tư quá mức vào những thị trường có rủi ro cao nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản.
Thứ ba, các NHTM nên chủ động trong việc giải quyết các khoản nợ xấu như: cơ cấu lại nợ vay; giãn thời gian trả nợ; xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời; tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật; đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu để thu hồi vốn; hay chuyển nợ thành vốn góp đối với các khách hàng là doanh nghiệp mà Ngân hàng đánh giá có triển vọng phát triển.
Thứ tư, đa dạng hóa công cụ huy động vốn. Để quản trị CTV hiệu quả và đảm bảo khả năng điều chỉnh linh hoạt đến CTV, các NHTM cần đa dạng hóa các công cụ huy động vốn của mình nhằm đáp ứng khả năng thay đổi của CTV mục tiêu trong từng thời kỳ.
Thứ năm, sử dụng một cách có hiệu quả đối với phần lợi nhuận giữ lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng khi lợi nhuận tăng thì đòn bẩy tài chính của các NHTM giảm xuống điều này có nghĩa rằng các khoản nợ có xu hướng giảm dần. Chính điều này giúp củng cố tính thanh khoản của Ngân hàng từ đó tạo dựng niềm
tin đối với các khách hàng. Ngoài ra, các Ngân hàng nên tận dụng nguồn lợi nhuận này để tăng vốn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Thứ sáu, nâng cao trình độ quản trị CTV Ngân hàng. Các Ngân hàng cần tổ chức hoạt động và cơ cấu nhân sự phù hợp với hoạt động quản trị tài chính, xây dựng hệ thống kiểm tra giám sát nội bộ một cách chặt chẽ và hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị Ngân hàng cần ý thức vấn đề thông tin bất cân xứng điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận vốn trên thị trường. Do đó, việc minh bạch thông tin trong Ngân hàng là tiền đề thuận lợi để các Ngân hàng tiếp cận vốn cũng như là cơ sở để thu hút các nhà đầu tư. Hơn nữa, các nhà quản trị cần phải thấy được tính hai mặt của việc sử dụng nhiều nợ, từ đó xây dựng một CTV phù hợp với quy mô Ngân hàng tránh tình trạng mất thanh khoản.
Cuối cùng, cần phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao với công nghệ hợp lý. Có thể nói đây là yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành Ngân hàng. Trên thực tế hiện nay, sự thiếu hụt nguồn nhân lực đạt chất lượng cao để quản lý và sử dụng công nghệ Ngân hàng đang diễn ra ở hầu hết các Ngân hàng. Do đó đi đôi với đầu tư công nghệ các Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Đây cũng là việc làm cấp thiết nếu các Ngân hàng muốn hướng đến việc phát triển ổn định và bền vững.
5.2.2. Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
Nếu hệ thống Ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng trung ương chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một Ngân hàng trung ương thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của Ngân hàng trung ương cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Ở Việt Nam, từ khi thành lập cho đến nay, NHNN là cơ quan của Chính phủ, chịu sự can thiệp hành chính của Chính phủ. Do vậy, NHNN cần phải điều tiết chính sách tiền một cách phù hợp và linh hoạt không chỉ giúp cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày một hiệu quả hơn
mà còn khẳng định được vị thế quan trọng nhằm hỗ trợ đắc lực cho nền kinh tế. Tác giả đưa ra một vài kiến nghị như sau:
+ Đối với Chính phủ, cần phải sử dụng một cách linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc thị trường. Tránh tình trạng áp dụng các biện pháp hành chính can thiệp làm méo mó hoạt động của thị trường. Bên cạnh đó, các chính sách được ban hành nên có tính khả thi cao, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, phù hợp với quy mô từng Ngân hàng và có sự nhất quán, tránh chồng chéo. Hơn nữa, Chính phủ có thể nới dần “room” cho các nhà đầu tư chiến lược vào khu vực Ngân hàng, điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt tài chính giúp các Ngân hàng tăng vốn kinh doanh, tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng mà còn có ý nghĩa về việc tăng cường quản trị, quản lý cũng như cải thiện sản phẩm dịch, công nghệ Ngân hàng.
+ Đối với NHNN, cần có sự độc lập tự chủ trong việc xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái, thực hiện chức năng của một Ngân hàng trung ương thực sự, là Ngân hàng của các Ngân hàng, là trung tâm thanh toán quốc gia, điều hành thị trường tiền tệ. Ngoài ra, NHNN cần phải đổi mới cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn, hiện đại, xây dựng một hệ thống thanh tra giám sát Ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tình hình hoạt động và khả năng thanh khoản của các NHTM cũng như phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát Ngân hàng.
+ NHNN cần xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng không có sự ưu ái cho các Ngân hàng quốc doanh. Cần phải xử lý nghiêm minh đối với các NHTM vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng dẫn đến nguy cơ gây mất an toàn cho cả hệ thống Ngân hàng như đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của NHTM; hay sáp nhập, hợp nhất, giải thể NHTM; hay yêu cầu NHTM phải có những giải pháp tái cơ cấu....
+ NHNN cần tăng cường giám sát thị trường tiền tệ để kịp thời phát hiện các Ngân hàng làm ăn kém hiệu quả, khả năng thanh khoản thấp để tiến hành sáp nhập, hợp nhất với mục đích nâng quy mô Ngân hàng, có nguồn vốn lớn hơn để tồn tại và phát triển trong môi trường tài chính ngày càng khắc nghiệt tránh tình trạng chính hoạt động yếu kém của các Ngân hàng này gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống Ngân hàng.
+ Trong thời điểm hiện tại, việc xử lý nợ xấu là một nhiệm vụ hết sức cấp bách, càng chậm trễ thì càng khó giải quyết và chi phí càng lớn bởi vì tài sản thế chấp hao mòn hoặc mất giá, một số vốn lớn bị đọng để dự phòng nợ xấu của Ngân hàng trong khi thanh khoản cạn kiệt, Ngân hàng và doanh nghiệp mất lòng tin vào nhau, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Do vậy, NHNN cần sớm sửa đổi Thông tư hướng dẫn về phân loại nợ xấu, có chế tài buộc các Ngân hàng phải phân loại nợ xấu theo đúng quy định, chủ động có kế hoạch xử lý nợ xấu. Đồng thời, NHNN cần sử dụng các chuyên gia tư vấn độc lập để tiến hành đánh giá thực trạng nợ xấu của toàn bộ hệ thống Ngân hàng, làm cơ sở để phân loại Ngân hàng theo mức VCSH còn lại, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp. Ngoài ra, NHNN cũng chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan như: Bộ tài chính, Bộ tư pháp, Ủy ban giám sát tài chính, hiệp hội Ngân hàng... để từ đó cùng xây dựng một khuôn khổ pháp lý cũng như đưa ra những giải pháp mang tính thiết thực nhằm giải quyết tận gốc nợ xấu của cả Ngân hàng và doanh nghiệp.
+ Ngoài ra, việc đảm bảo tính công khai minh bạch thông tin của các NHTM cũng là một nhân tố quan trọng. Có thể nói, chất lượng thông tin có vai trò quyết định trong việc thu hút các nhà đầu tư, giúp cho các nhà đầu tư biết rò “sức khỏe” của Ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các Ngân hàng niêm yết chỉ chú trọng đến quyền lợi của mình, chưa thật sự quan tâm đến quyền lợi của cổ đông, chỉ đưa ra những thông tin tốt, thậm chí nhiều cổ đông chủ chốt còn trục lợi trong việc công bố thông tin... Như vậy, Chính phủ cũng như NHNN cần phải có cơ chế giám sát, xử lý nghiêm khắc đối với Ngân hàng có dấu hiệu sai phạm trong việc công bố
thông tin nhằm tiến tới hệ thống thông tin hiện đại và minh bạch hóa tạo niềm tin cho nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển.
+ NHNN nên xây dựng một tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, trong đó đặc biệt là vai trò của thị trường trái phiếu. Đây có thể là một kênh thông tin mang tính chính xác cao, hiệu quả giúp các nhà đầu tư có những quyết định trong kinh doanh.
+ Ngoài ra, NHNN cũng nên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn. Đa dạng các sản phẩm tài chính, khuyến khích các định chế tài chính trung gian phát triển các dịch vụ tài chính như mua bán nợ, chiết khấu thương phiếu, bảo hiểm, tư vấn tài chính... đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh trên thị trường tài chính.
+ Tóm lại, Chính phủ cũng như NHNN nên hoàn thiện và tăng cường tính hiệu lực của hệ thống pháp luật cho thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế.
5.3. Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về CTV mang tính định lượng trong lĩnh vực tài chính Ngân hàng được nghiên cứu bởi các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam có rất ít bài nghiên cứu về CTV Ngân hàng, nên hạn chế về những thông tin so sánh, đối chiếu. Bên cạnh đó, tác giả lựa chọn các nhân tố từ các mô hình CTV Ngân hàng trên thế giới để sử dụng kiểm định đối với mô hình CTV cho các NHTM tại Việt Nam nên không thể tránh việc sử dụng biến chưa được đồng nhất.
Số lượng mẫu thu thập nghiên cứu khá nhỏ: một số Ngân hàng đã công bố số liệu không đầy đủ dẫn đến tác giả chỉ thu thập được thông tin của 30 NHTM trong tổng số 43 Ngân hàng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam chiếm tỷ lệ khoảng 69,77%. Do vậy, tỷ lệ mẫu nghiên cứu chỉ ở mức trung bình. Vì thế việc đánh giá tình hình hoạt động của cả hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam sẽ còn hạn chế cũng như chưa bao quát hết tình hình hoạt động của các Ngân hàng này.
Việc xây dựng biến: tác giả sử dụng biến cho mô hình nghiên cứu dựa trên việc lựa chọn các biến trong mô hình CTV Ngân hàng của các quốc gia trên thế giới, chưa có sự khảo sát về mặt định tính đối với các nhà quản trị tài chính Ngân hàng nên có thể bỏ sót một vài nhân tố có ảnh hưởng đến CTV Ngân hàng như: lãi suất, tài sản có rủi ro, nợ xấu, lạm phát, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)... Đây là hướng mở cho các nghiên cứu sau này.
Phương pháp đo lường: do hạn chế về thông tin và số liệu nên các biến số được đo lường chỉ theo giá trị sổ sách kế toán, không thể đo lường các biến số này theo giá trị thị trường của Ngân hàng, trong khi đó một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới đã đo lường các biến nghiên cứu theo giá trị thị trường do vậy có thể phản ánh chính xác mối tương quan của các biến độc lập và biến phụ thuộc. Một lý do mà tại Việt Nam không thể thực hiện được là vì tính minh bạch thông tin của các NHTM tại Việt Nam chưa cao nên chưa có dữ liệu để tiến hành nghiên cứu. Đây cũng là một vấn đề quan trọng trong quản trị tài chính doanh nghiệp.