hội học; các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo kết quả hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; các báo cáo giám sát chuyên đề; các báo cáo tại các phiên chất vấn, giải trình tại Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội... Trong TTCS CCHCNN, báo chí cũng cần xác định rõ dự thảo, dự án CS, pháp luật mà báo chí cần nghiên cứu để phản biện CS, xác định CS đang ở giai đoạn nào, thực tiễn đòi hỏi đến đâu, như thế nào, phạm vi và yêu cầu ra sao; đánh giá sự phù hợp giữa quy định của dự thảo, dự án CS với yêu cầu của đời sống xã hội đang đặt ra... [Phụ lục 7].
Công tác tổ chức phản biện CS cần được tổ chức theo chiều sâu. Theo đó, cần xem xét một cách thận trọng, khách quan, trung lập về tính có căn cứ, tính khoa học, tính thời sự, tính cấp thiết, tính khả thi, tính phù hợp với thực tiễn, phù hợp với các quy luật khách quan, với ý chí và nguyện vọng của nhân dân... của các dự thảo CS; xem xét toàn diện về sự phù hợp của các dự thảo, dự án CS, pháp luật với Cương lĩnh, nghị quyết, văn kiện của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo, dự án CS, pháp luật đó với các CS, hệ thống pháp luật hiện hành, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, phù hợp trong tổng thể các CS, pháp luật đã được ban hành. Báo chí cần xem xét đầy đủ về mọi mặt để đáảnh giá đúng mức sự tác động của các CS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đưa thông tin lên báo cần phải cân nhắc, xem xét một cách thận trọng, khách quan, trung lập đối với tất cả các ý kiến, quan điểm, chủ thuyết khác nhau trong quá trình phản biện CS. Điều này sẽ làm cho hoạt động phản biện ngày càng khoa học, toàn diện, sâu sắc, phong phú và chặt chẽ hơn. Việc phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở khoa học cũng như căn cứ thực tiễn về những nội dung CS phải luôn được đặt ra trong quá trình phản biện để thấy được mặt ưu việt và những hạn chế chưa hoàn chỉnh của những dự thảo CS, pháp luật đó, nhất là về vấn đề lợi ích của Đảng, NN và Nhân dân có được bảo đảm hay không. Mặt khác, những vấn đề về lợi ích cục bộ ngành, địa phương thậm chí là lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân cần được xem xét xem đã được loại trừ ra khỏi các dự thảo CS đó hay chưa.
3.3. Khuyến nghị
3.3.1. Đối với cơ quan quản lý báo chí
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hải (2021), bên cạnh thường xuyên
161
thực hiện sự phối hợp chặt chẽ, có phân công trách nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam trong việc chỉ đạo và ra kế hoạch hoạt động cho báo chí từng quý, từng năm, các cơ quan quản lý báo chí phải thực hiện tốt chức năng TTCS CCHCNN liên quan đến ngành của mình [30]. Tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của cấp ủy các cơ quan quản lý báo chí trong việc lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí nhằm phát huy tốt nhất vai trò của báo chí trong thông tin, tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Chủ động lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan báo chí xây dựng đội ngũ cộng tác viên, hỗ trợ chế độ, CS đãi ngộ hợp lý cho lực lượng tham gia TTCS CCHCNN. Trong bối cảnh các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đang sử dụng truyền thông làm công cụ truyền bá quan điểm sai trái, chống lại các CS của NN, trong đó có CS CCHCNN thì việc phát huy vai trò tích cực của báo chí càng trở nên quan trọng, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò các cơ quan báo chí. Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan báo chí đã hoạt động hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác TTCS CCHC. Do đó, bên cạnh việc tăng cường vai trò và sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan báo chí, với báo chí trong TTCS CCHCNN thì sự quan tâm đến chế độ CS đối với các cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên thực hiện nhiệm vụ TTCS CCHCNN là rất quan trọng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các cơ quan báo chí tồn tại một phần dựa trên kinh phí của NN, một phần dựa trên kinh phí có được từ kinh doanh thông tin. Do đó, các CS liên quan đến đãi ngộ cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên thực hiện TTCS CCHCNN là rất quan trọng nhằm thu hút tin, bài về lĩnh vực này. Có như vậy thì báo chí mới thực sự không chỉ là công cụ, vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và NN, mà còn là cầu nối giữa Đảng, NN với nhân dân trong CCHCNN [11].
Cơ quan quản lý báo chí lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan báo chí chủ động cung cấp thông tin về CS CCHCNN thông suốt, nhất quán; có chiến lược truyền thông bài bản, toàn diện như phát huy nhiều kênh, nhiều hình thức khác nhau [30]. Tính nhất quán và chính xác về CS CCHCNN là yêu cầu quan trọng để bảo đảm tính thông nhất của các bài viết TTCS CCHCNN từ khâu nhận diện
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Bố Số Lượng Đối Tượng Khảo Sát Quan Tâm Theo Thể Loại Báo Chí
- Sự Phát Triển Của Báo Chí Truyền Thông Hiện Đại
- Đẩy Mạnh Hơn Nữa Trong Đầu Tư Các Bài Viết Đề Cập Trực Tiếp, Phân Tích Chuyên Sâu Về Chính Sách Cải Cách Hành Chính Nhà Nước
- Báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam - 23
- Cook, A. J., Moore, K., & Steel, G. D. (2004). The Taking Of A Position: A Reinterpretation Of The.
- Báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 340 trang tài liệu này.
162
vấn đề CS, đề xuất CS, thực thi CS và đánh giá CS. Thực tế cho thấy thông tin về CS CCHCNN được cung cấp, trao đổi dựa trên nhiều nguồn khác nhau. Do đó, việc quán triệt việc cung cấp thông tin CS CCHCNN nhất quán, xuyên suốt sẽ bảo đảm độ tin cậy, chính xác ngay từ đầu. Có như vậy thì báo chí mới thật sự là cầu nối giữa Đảng, NN với người dân trong TTCS CCHCNN.
3.3.2. Đối với cơ quan báo chí
Để cơ quan báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ TTCS CCHCNN, lãnh đạo cơ quan báo chí cần chú trọng đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trong tòa soạn, trực tiếp là đội ngũ phóng viên, biên tập viên. Riêng đối với những người chuyên làm công tác TTCS CCHCNN, lãnh đạo cơ quan báo chí cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao chất lượng phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và kiến thức về CCHCNN để có những tác phẩm báo chí TTCS CCHCNN có chất lượng. Để làm được việc này, cơ quan báo chí cần rà soát, đánh giá đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên có để lựa chọn những người có năng lực thực hiện công tác TTCS nói chung và TTCS CCHCNN nói riêng. Cần có kế hoạch bổ sung cán bộ có năng lực, đủ phẩm chất làm công tác TTCS CCHCNN.
Người tham giá công tác TTCS CCHCNN hơn ai hết phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, nghiệp vụ TTCS nói chung và TTCS CCHCNN nói riêng tinh thông. Do đó, các cấp ủy đảng trong các cơ quan báo chí cần tăng cường các hoạt động giáo dục, nâng cao lý luận chính trị cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên bằng nhiều hình thức phong phú để mỗi nhà báo đều trở thành những người có đủ phẩm chất, năng lực làm công tác TTCS CCHCNN. Việc tuyển chọn đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm nhiệm vụ TTCS CCHC cần thực hiện thận trọng, nhằm bảo đảm những người làm báo ngoài phẩm chất chính trị phù hợp, còn có đạo đức, nhân cách tốt để có thể thực hiện tốt công việc của mình.
Để truyền thông CS CCHCNN hiệu quả, cơ quan báo chí cần phải nâng cao tính định hướng tư tưởng xã hội, phải đi đầu về thông tin CS CCHCNN, định hướng dư luận xã hội tin tưởng vào sự thành công của CS CCHCNN tiến trình phát triển đất nước. Cơ quan báo chí cần tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở
163
vật chất, kỹ thuật, nguồn lực và cơ chế cho những người trực tiếp làm công tác TTCS CCHCNN để thu hút những nhà báo, phóng viên, biên tập viên có năng lực, những tác phẩm báo chí TTCS CCHCNN có chất lượng.
Để tránh tình trạng nhiễu thông tin, lạm dụng thông tin, xuyên tạc thông tin CS CCHCNN của các thế lực chống đối, các cơ quan báo chí phải nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên về các quy định của pháp luật liên quan. Các cơ quan báo chí cần bám sát nhiệm vụ chính trị trị, không có tình trạng “câu like, câu view”. Cũng như các lĩnh vực truyền thông khác, đối với TTCS CCHC, cơ quan báo chí cũng cần vào cuộc rất nhạy bén, năng động, kịp thời làm chủ được thông tin, lấn át được những thông tin không chính xác trên mạng, qua đó góp phần định hướng dư luận đúng đắn về CS CCHCNN.
Cơ quan báo chí cần tận dụng các kênh xã hội và các loại hình báo chí khác để lắp thêm những cánh tay nối dài. Hiện nay, nhiều tờ báo đã tạo ra nhiều kênh giao tiếp hơn với công chúng, từ đó nhận ra và điều chỉnh dư luận tốt hơn; xây dựng được hệ sinh thái truyền thông xã hội của riêng mình (facebook, youtube…).Từ đó, cùng với các kênh truyền thống (hotline, email, chat...), báo chí có điều kiện tiếp cận phản hồi của công chúng, thể hiện và giải tỏa những tâm lý bất ổn, hỗ trợ cơ quan quản lý kiểm soát và điều hướng dư luận xã hội, đặc biệt, phổ biến thông tin báo chí từ Việt Nam đến toàn cầu.
3.3.3. Đối với đội ngũ nhà báo
Như đã trình bày, tiêu chuẩn của người làm TTCS CCHCNN là bản lĩnh chính trị và kỹ năng nghề nghiệp. Do đó, đòi hỏi nhà báo làm công tác TTCS phải không ngừng tu dưỡng đạo đức của người làm báo, kiến thức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đủ rộng và chuyên sâu, có khả năng tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra và thực hiện tốt các hoạt động TTCS CCHCNN trong cơ quan tuyên truyền, giáo dục của Đảng, bộ phận truyền thông của các cơ quan NN, các tổ chức chính trị - xã hội. Hay nói khác đi, nhà báo phải có đủ chữ “tâm” (tâm huyết, đạo đức), chữ “tài” (năng lực chuyên môn, có khiếu, có tài viết báo) và chữ “tầm” (có tầm nhìn rộng lớn, sâu”. Họ phải yêu nghề, sống “say sưa, sâu sắc” bám sát thực tiễn đời sống. Ngoài ra, nhà báo viết về CS cần có cách viết “sống” (sinh động), “sắc” (có lý lẽ), “sôi” (nhiệt tình), lý luận, dẫn chứng phải
164
đúng “sách, sử”, có bản lĩnh không “sợ sệt” (vấn đề khó khăn, gai góc), khi phê bình, cảnh tỉnh chớ quá đáng, viết “sàn sạt” để lại “sẹo” trong lòng đối tượng nhưng cũng cần tránh “si, sùng” (tô hồng) [1].
Người làm TTCS CCHC phải trung thực với những gì tai nghe mắt thấy. Nhà báo thiết kế và tổ chức quá trình TTCS CCHCNN cần mang tính cầu thị (hướng tới các giá trị tốt đẹp và cải thiện chất lượng CS vì phát triển xã hội) với mục tiêu để lắng nghe tốt hơn, đặc biệt là để tiếp nhận và phát huy tốt hơn các ý kiến phản biện xã hội, cởi mở, có tính tranh luận, sẵn sàng đối thoại (nghe và đối thoại, kể cả nghe những ý kiến trái chiều) [29]. Đặc biệt trong thế giới số hóa công tác truyền thông, nhà báo cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các hoạt động đối thoại (online và offline), nghiên cứu và dự báo dư luận, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác thông tin, báo cáo, khảo sát thực tế, tổ chức các sự kiện liên quan trực tiếp hay gián tiếp về CS CCHCNN.
Nhà báo tham gia công tác TTCS CCHCNN cần hiểu rằng TTCS CCHCNN là cần thiết, cấp thiết đối với xã hội, trọng tâm chính yếu trong xây dựng, thực thi CS nói chung. Trong bối cảnh hiện nay, báo chí cần đưa mạng xã hội trở thành phương tiện TTCS hữu hiệu, không để kẻ xấu lợi dụng. Các bài viết về TTCS CCHCNN phải lấy người dân làm trung tâm, tạo ra sự tiếp xúc trực tiếp giữa người nói, người nghe, truyền tải ý nghĩa của CS CCHCNN với người sử dụng thông tin. Hiểu vai trò trung tâm của công chúng trong quá trình CS không chỉ ở việc công chúng là đối tượng mà còn là người tham gia vào quá trình CS, phản hồi về các lựa chọn CS và đánh giá tác động của CS. Để làm được điều này, trước khi viết bài TTCS CCHCNN, nhà báo cần có các mô hình và giải pháp tiếp nhận, phân tích phản hồi của công chúng. Nguyên tắc bắt buộc mà nhà báo cần nắm vững là bảo đảm quyền thông tin của người dân và tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định CS.
3.3.4. Đối với cơ quan hoạch định chính sách
TTCS CCHCNN là một phần trong hoạt động của chính phủ nhằm đưa thông tin về chính sách CCHC đến người dân, thuyết phục họ thay đổi nhận thức và hành vi đúng pháp luật, là kênh để chính phủ lấy ý kiến nhân dân khi xây dựng CS CCHCNN, điều chỉnh CS CCHCNN, tạo ra sự đồng thuận xã hội. Thực tế này buộc cơ quan hoạch định CS hỗ trợ báo chí trong TTCS CCHCNN,
165
đặt hàng với cơ quan báo chí trong TTCS CCHCNN. Bên cạnh đó, cơ quan hoạch định CS CCHCNN cần làm tốt công tác phát ngôn, cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí về CS CCHCNN. Công tác này rất quan trọng để tránh tính trạng một số vấn đề “nóng” do báo chí phản ánh được dư luận quan tâm theo hướng tiêu cực.
Cơ quan hoạch định CS phải biết lắng nghe, nắm bắt tình hình hoạt động, các kiến nghị, đề xuất để kịp thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ TTCS CCHCNN từ báo chí [8]. Cơ quan hoạch định CS CCHCNN cần hiểu rõ vai trò của TTCS CCHCNN không chỉ giới hạn để cung cấp thông tin mà còn có chức năng giáo dục người dân về các vấn đề CS CCHCNN liên quan đến cuộc sống. Cơ quan hoạch định CS CCHCNN cần hiểu, ủng hộ, hợp tác với cơ quan báo chí khi báo chí tiến hành phê bình, phân tích và đánh giá chuyên sâu bằng cách thảo luận về ưu và nhược điểm của CS CCHCNN một cách vô tư và công bằng. Trong quá trình phục vụ công chúng, TTCS CCHCNN có thể thông báo những gì tốt hay có hại cho nhà nước, người dân, doanh nghiệp. Đó là cách TTCS thực hiện vai trò của một người đưa ra ý kiến. Kết quả của cách tiếp cận như vậy là làm cho cơ quan hoạch định CS CCHCNN có cơ sở thận trọng, tỉ mỉ trong việc xây dựng CS. Do đó, sự hợp tác, hỗ trợ giữa cơ quan hoạch định CS với cơ quan báo chí là yêu cầu trong TTCS CCHCNN. Cơ quan hoạch định CS CCHCNN cần có cơ chế thông tin cởi mở với báo chí để trước hết, chính những người làm báo có thể biết và hiểu đúng về CS CCHCNN, trên cơ sở đó mới có thể đưa ra thông điệp TTCS CCHCNN đúng đắn và hiệu quả. TTCS CCHCNN của báo chí có đạt hiệu quả hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp giữa cơ quan ban hành CS CCHCNN với cơ quan báo chí.
3.3.5. Đối với các chuyên gia, cá nhân có trách nhiệm trong quy trình chính sách
Chuyên gia, cá nhân có trách nhiệm trong quy trình CS CCHC cần hiểu rằng công tác TTCS CCHCNN đóng vai trò quan trọng nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong kỷ nguyên số và cách mạng công nghiệp 4.0, TTCS trên môi trường internet đã chứng minh được tính vượt trội bởi sức mạnh lan tỏa và tính kết nối không giới hạn. Thực
166
tế này cũng đạo tạo những thách thức không nhỏ cho công tác TTCS CCHCNN. Việc có quá nhiều luồng thông tin trong truyền thông xã hội bao gồm có những ý kiến đồng thuận, đóng góp, phản biện, thậm chí là lợi dụng để kích động, gây bất ổn xã hội... đòi hỏi các kênh thông tin chính thống như báo chí phải nhanh nhẹn, nắm bắt kịp thời dư luận và có định hướng thông tin đúng đắn. Do đó, các chuyên gia, cá nhân có trách nhiệm trong quy trình CS cần cân nhắc khi tiếp nhận thông tin CS CCHCNN từ các loại hình báo chí.
Các chuyên gia, cá nhân có trách nhiệm trong quy trình CS CCHC cần nhận thưc được thực tế đang tồn tại “cuộc đua” giữa báo mạng điện tử và mạng xã hội. Do đó, cần phải sàng lọc thông tin, quan tâm đúng mức đối với việc xây dựng thông điệp và chiến lược TTCS CCHCNN thông qua các kênh báo chí. Cũng như những nhà báo, phóng viên, biên tập viên làm công tác TTCS CCHCNN, các chuyên gia, cá nhân có trách nhiệm trong quy trình CS CCHCNN cần xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, kiến thức và kỹ năng TTCS CCHCNN ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, cần hợp tác tích cực với cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên và những người liên quan thực hiện nhiệm vụ TTCS CCHCNN qua việc cung cấp thồng tin cho báo chí kịp thời, chính xác, xuyên suốt để TTCS CCHCNN sát với quy trình CS CCHCNN.
3.3.6. Đối với tri thức, học giả, công chúng trong xã hội
TTCS CCHCNN là quá trình trao đổi, tương tác thông tin với nhau về các vấn đề CCHCNN liên quan đến đới sống xã hội. Nhờ TTCS CCHCNN mà tri thức, học giả, công chúng có sự hiểu biết về CS CCHCNN, hình thành hoặc thay đổi nhận thức, thái độ đối với nền hành chính. TTCS CCHCNN đóng vai trò quan trọng đối với mỗi khâu của chu trình CS CCHCNN. Cụ thể, khâu hoạch định CS CCHCNN, TTCS giúp xác định được đúng và trúng vấn đề CS liên quan đến thể chế, thủ tục hành chín, tổ chức bộ máy nhà nước… bảo đảm sự đồng thuận xã hội và để nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong khâu xây dựng CS CCHCNN, TTCS giúp quá trình lựa chọn giải pháp công cụ CS CCHCNN phù hợp. Trong khâu thực hiện CS CCHCNN, TTCS giúp việc giám sát CS CCHCNN được thực hiện với sự tham gia của cả xã hội. Khâu đánh giá CS CCHCNN, TTCS giúp làm rõ được kết quả CS, đồng thời tuyên truyền cho
167
kết quả CS, giúp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện CS. Do đó, trách nhiệm của tri thức, học giả, công chúng là tham gia tích cực vào quy trình CS CCHCNN qua kênh truyền thông báo chí.
Tri thức, học giả, công chúng có trách nhiệm đối với quy trình CS CCHCNN với những việc làm cụ thể như hiến kế, trình bày sáng kiến… Về những vấn đề liên quan đến CS CCHCNN. Ngược lại, báo chí cần lắng nghe ý kiến người dân, ý kiến tư vấn góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học để làm sao tạo được sự đồng thuận xã hội cao nhất đối với CS CCHCNN, để CS thực sự đi vào cuộc sống. Báo chí cũng cần tiếp tục lắng nghe ý kiến phản hồi từ người dân. Bởi chính những người thụ hưởng CS biết rõ được CS ấy đúng hay sai, có những hạn chế hay bất cập gì. Từ đó, có những đề xuất giải pháp với chính quyền để tháo gỡ và đề ra CS tốt hơn.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích thực trạng và đánh giá một số thành tựu, hạn chế của báo chí TTCS CCHCNN, trong chương 3, luận án luận giải một số vấn đề và đưa ra giải pháp, kiến nghị để nâng cao hoạt động này trong thời gian tới.
Theo nghiên cứu của một số chuyên gia và tình hình nghiên cứu thực tiễn, năm vấn đề lớn được luận giải trong nghiên cứu báo chí TTCS CCHCNN đó là: hiệu quả của báo chí dựa trên việc nhận và phản hồi thông điệp; cần đánh giá hiệu quả báo chí TTCS CCHCNN theo mô hình phân tích đa biến; hiệu quả báo chí TTCS CCHCNN gắn với hiệu quả truyền thông các giai đoạn khác nhau của quy trình CS; cần hiểu đúng vai trò của nội dung truyền thông để làm cơ sở đánh giá vai trò của báo chí TTCS CCHCNN; xu hướng tác động đến báo chí TTCS CCHCNN với một số vấn đề được đề cập: cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự phát triển của báo chí truyền thông hiện đại, sự thay đổi về nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng.
Bên cạnh đó, luận án đưa ra hai nhóm giải pháp cơ bản và chuyên nghiệp hóa hoạt động báo chí TTCS CCHCNN. Nhóm giải pháp cơ bản được đưa ra căn cứ trên thực trạng khảo sát với một số nội dung đó là: các báo cần có số lượng bài viết lớn, phân bổ phù hợp theo thể loại báo chí nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của người đọc; tập trung vào đặc điểm đối tượng người đọc để xây dựng chiến lược bài viết phù hợp; các cơ quan báo chí cần đẩy mạnh hơn
168