Khái Niệm Rủi Ro Tín Dụng Và Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng


3.1.2 Khái niệm rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng

Tháng 9/2000 Ủy ban Basel ban hành bộ “Những nguyên tắc cho quản trị rủi ro tín dụng” (Principles for the Management of Credit Risk), trong đó có đề cập: “Rủi ro tín dụng là khả năng bên vay nợ ngân hàng hoặc bên đối tác không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán theo các điều khoản đã thỏa thuận”

Theo Quản trị rủi ro ngân hàng (2001) của Joel Bessis, rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc đó là sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.

Theo Tổ chức Moody’s Analytics, QTRRTD là một quá trình thực hiện các biện pháp giảm tổn thất bằng cách hiểu một cách đầy đủ về vốn và dự phòng RRTD trong một khoảng thời gian nhất định. Với quan điểm này thì quản trị RRTD thực chất là việc nhà quản trị có những biện pháp để quản lý vốn và dự phòng cho RRTD.

Ủy ban Basel cho rằng, quản trị RRTD là việc thực hiện các biện pháp tối đa hóa tỷ suất sinh lời điều chỉnh theo RRTD bằng cách duy trì số dư tín dụng trong phạm vi các tham số cho phép. Khái niệm về QTRRTD của Ủy ban Basel đã làm rò được vấn đề đó là mục đích của QTRRTD là tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đảm bảo tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra nằm trong giới hạn kiểm soát được.

Theo khung QTRRTD của ngân hàng Standard Charter (năm 2012), QTRRTD là thiếp lập quy trình kiểm soát việc đo lường và quản lý RRTD. Trong khi đó, tài liệu hướng dẫn quản trị RRTD của MAS (Singapore) cho biết, quản trị RRTD là quá trình nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát, kiểm soát và báo cáo RRTD.

Như vậy quản trị rủi ro tín dụng được hiểu là quá trình đo lường và kiểm soát các rủi ro trong hoạt động tín dụng để đảm bảo tổn thất có thể xảy ra nằm trong giới hạn chấp nhận được của ngân hàng.


3.1.3 Các mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại

Hiện nay, có 02 mô hình quản trị rủi ro tín dụng được phổ biến sử dụng đó là:


- Mô hình QTRRTD tập trung: tập trung quản lý rủi ro, thẩm định khách hàng tại hội sở chính hoặc theo vùng miền. Mô hình này tách biệt giữa chức năng quản trị rủi ro ở hội sở chính và chức năng kinh doanh ở các chi nhánh. Thông thường những ngân hàng có quy mô hoạt động lớn sẽ sử dụng mô hình này.

- Mô hình QTRRTD phân tán: mô hình này không tách biệt giữa chức năng quản trị rủi ro và chức năng kinh doanh, các chi nhánh sẽ thực hiện luôn công việc thẩm định khách hàng, kiểm soát rủi ro trong hạn mức được phép. Hội sở chính chỉ ban hành các quy định, chính sách, hướng dẫn chung và chịu trách nhiệm thẩm định những khách hàng vượt quá hạn mức cho phép của chi nhánh. Những ngân hàng có quy mô nhỏ thường sử dụng mô hình này.

3.1.4 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

Quy trình quản trị RRTD bao gồm 04 bước: Nhận biết rủi ro; đo lường rủi ro; ứng phó rủi ro; và kiểm soát rủi ro. Đây là toàn bộ các khâu trong một quy trình quản trị RRTD. Tất cả các khâu này đều có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một quy trình liên tục, mới có thể tạo thành một quy trình QTRRTD hoàn chỉnh và hiệu quả.

Trước tiên, ngân hàng cần phải tiến hành nhận biết được rủi ro tín dụng, thông qua những dấu hiệu cảnh báo sớm để có những giải pháp xử lý các vấn đề kịp thời và có hiệu quả. Đo lường RRTD là việc lượng hóa các mức độ rủi ro cũng như biết được xác suất rủi ro, từ đó xác định tổn thất có thể gây ra và khả năng chịu đựng của ngân hàng. Đây chính là cơ sở để các ngân hàng đưa ra những biện pháp phù hợp, nhanh chóng khi xảy ra RRTD.

Ứng phó RRTD là việc sử dụng hệ thống công cụ, chính sách nhằm ngăn ngừa và xử lý RRTD trong ngân hàng. Các chính sách đó có thể là: chính sách quy trình


tín dụng, quy định về chức năng nhiệm vụ bộ máy quản trị RRTD, các giới hạn tín dụng...

Bước cuối cùng trong công tác quản trị rủi ro tín dụng là kiểm soát RRTD. Ở bước này, ngân hàng sẽ đưa ra các quyết định và biện pháp để khắc phục và giảm thiểu chi phí rủi ro và tổn thất mà RRTD đã gây ra cho ngân hàng ở mức thấp nhất có thể.

Trong tình hình hiện nay, vấn đề kiểm soát được rủi ro tín dụng tại các NHTM là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, việc tìm ra các biện pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống quản trị RRTD luôn mang ý nghĩa chiến lược lâu dài. Điều đó đặt ra cho các nhà quản trị NHTM cần có kiến thức sâu rộng về hoạt động quản trị RRTD, từ đó giúp hoạch định được chính sách và đưa ra những quyết sách hợp lý, nhằm mang lại hiệu quả cao trong việc giảm thiểu rủi ro của hoạt động tín dụng cho các NHTM.

Hiện tại hầu hết các quốc gia đều đánh giá Hiệp ước vốn Basel là công cụ hữu ích nhất trong việc QTRRTD, và cung cấp những nguyên tắc thiết thực về giám sát hoạt động của các ngân hàng. Do đó việc tuân thủ các quy định của Basel II trở thành yêu cầu cấp thiết để mang lại sự an toàn trong hệ thống tài chính, và đã nhận được sự ủng hộ và quyết tâm cao từ các nhà quản lý trên thế giới.

3.1.5 Các nguyên tắc chung trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

Hiệp ước Basel II đa đưa ra các nguyên tắc chung trong quản trị rủi ro tín dụng bao gồm:

- Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:

o Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ (ít nhất là hằng năm), xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời. Chiến lược sẽ phản ánh mức độ chấp


nhận rủi ro của ngân hàng và mức độ lợi nhuận mà ngân hàng dự kiến sẽ đạt được khi phát sinh các rủi ro tín dụng khác nhau.

o Nguyên tắc 2: Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các chính sách tín dụng. Xây dựng các quy trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.

o Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt động mới đều trải qua đầy đủ các thủ tục, các quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.

- Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:

o Nguyên tắc 4: Các ngân hàng phải thực hiện theo các tiêu chí cấp tín dụng được xác định rò ràng .Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những hiểu biết về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh toán.

o Nguyên tắc 5: Các ngân hàng thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng khách hàng riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán.

o Nguyên tắc 6: Các ngân hàng nên có các quy trình được thiết lập rò ràng cho việc phê duyệt các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.

o Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao dịch thương mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro cho vay đối với các bên có liên quan.

- Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng có hiệu quả:

o Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ đối với các danh mục tín dụng.

o Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng rủi ro tín dụng.


o Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ. Hệ thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của ngân hàng.

o Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích: giúp Ban quản lý đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán, cung cấp thông tin về cơ cấu và thành phần danh mục tín dụng, bao gồm cả việc phát hiện các tập trung rủi ro.

o Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với: Cơ cấu tổng thể của danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng.

o Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lai trong những tình trạng khó khăn khi đánh giá danh mục tín dụng.

- Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:

o Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập, liên tục và thực hiện thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao.

o Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dòi đầy đủ, cụ thể: Việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm soát nội bộ, những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần được báo cáo kịp thời.

o Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn đề.

- Vai trò của người giám sát:

o Nguyên tắc 17: Giám sát viên cần dựa trên hệ thống của ngân hàng để xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng . Các giám sát viên nên tiến hành đánh giá độc lập chiến lược ngân hàng, chính sách, thủ tục và quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng cũng như quản lý danh mục đầu tư.

3.2 Tổng quan về Hiệp ước Basel

3.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của uỷ ban Basel và hiệp ước vốn Basel


Năm 1974, sau một loạt các cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế, các cơ quan quản lý ngân hàng của 10 nước thành viên thuộc nhóm G10 đã thành lập Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision– BCBS) tại thành phố Basel, Thụy Sĩ. Tháng 2/1975 Ủy ban Basel tổ chức cuộc họp đầu tiên và sau đó định kỳ nhóm họp bốn năm một lần nhằm trao đổi thông tin giữa các quốc gia và thảo luận đề ra các biện pháp, tiêu chuẩn cải thiện hiệu quả giám sát hoạt động ngân hàng.

Hiện nay 3 Hiệp ước về vốn đã được Ủy ban Basel ban hành là: Basel I, Basel II, Basel III. Các hiệp ước vốn ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với những biến đổi của thị trường và khắc phục những hạn chế của hiệp ước vốn trước đó.


3.2.2 Nội dung các hiệp ước Basel I và Basel II

Năm 1988, Hiệp ước Basel I được Ủy ban Basel đưa ra với mục đích tăng cường sự ổn định, hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng quốc tế, và thiết lập một cơ chế bình đẳng thống nhất giữa các ngân hàng. Basel I là một khung đo lường vốn và rủi ro tín dụng trong đó các ngân hàng được yêu cầu phải duy trì một mức an toàn vốn tối thiểu là 8% để dự phòng với những rủi ro có thể xảy ra. Từ năm 1992, tiêu chuẩn này được các nước thành viên nhóm G10 áp dụng, và sau đó là nhiều nước khác trên thế giới.

Vốn của các ngân hàng bao gồm 3 loại:

- Vốn cấp 1: chủ yếu là vốn chủ sở hữu và các nguồn dự phòng được công bố.

- Vốn cấp 2 (vốn bổ sung) bao gồm: lợi nhuận giữ lại không công bố, vốn tăng do đánh giá lại tài sản, vay với thời hạn ưu đãi, một phần tỷ lệ dự phòng chung.

- Vốn cấp 3: các khoản vay ngắn hạn.

Basel I quy định Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3

Basel I cũng phân tài sản của ngân hàng thành các mức rủi ro mang trọng số từ 0%, 20%, 50% đến 100%.

Việc ra đời hiệp ước Basel I là một bước tiến lớn trong chiến lược QTRR, đảm bảo an toàn hoạt động đối với hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên Basel I vẫn còn có


mặt hạn chế khi chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng mà không đề cập đến rủi ro vận hành. Ngoài ra các trọng số rủi ro được tính toán dựa trên loại khách hàng hoặc sản phẩm thay vì phân biệt đúng theo bản chất của loại rủi ro.

Sau cuộc khủng khoảng ngân hàng những năm 1990, Hiệp ước Basel II được giới thiệu ngày 26/6/2004 để khắc phục những mặt chưa hoàn thiện của Basel I.

Hiệp ước Basel II đã bao hàm đầy đủ hơn các loại rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại và đưa ra khái niệm 3 trụ cột cụ thể như sau:

Trụ cột I


Hiệp ước Basel II xác định các ngân hàng thương mại phải đối mặt với 3 loại rủi ro cơ bản: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro vận hành. Do đó các ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ vốn pháp định trên cả ba khía cạnh rủi ro này. Với Trụ cột I, tỷ lệ vốn vẫn duy trì tối thiểu bằng 8%.

Để tính toán vốn yêu cầu cho rủi ro tín dụng, Ủy ban Basel đề xuất các ngân hàng có thể lựa chọn một trong hai phương phương pháp tiếp cận, một là phương pháp tiêu chuẩn hóa, được hỗ trợ bởi các tổ chức đánh giá tín dụng độc lập và hai là phương pháp tiếp cận dựa trên xếp hạng tín dụng nội bộ được sự phê chuẩn của các cơ quan quản lý ngân hàng.

Phương pháp tiêu chuẩn:


Khác với Basel I, việc đo lường trọng số rủi ro được dựa trên đánh giá khách quan của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập. Các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập được lựa chọn phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý nhà nước và đảm bảo 6 tiêu chí của Basel: khách quan, độc lập, minh bạch và hoạt động quốc tế, cung cấp các thông tin cần thiết, đảm bảo nguồn lực, tín nhiệm cao. Các khoản vay được xem là quá hạn nếu mức độ rủi ro của chúng là 150%, trừ trường hợp ngân hàng đã trích lập dự phòng cho khoản vay đó.


Các bảng 3.1, 3.2, 3.3 mô tả trọng số rủi ro được sử dụng tùy theo xếp hạng tín dụng của các quốc gia, ngân hàng và doanh nghiệp.

Bảng 3.1: Trọng số rủi ro cho các khoản vay của quốc gia và ngân hàng trung ương


Xếp hạng tín dụng

AAA đến A-

A+ đến A-

BBB+

đến BBB-

BB+ đến B-

Dưới B-

Không xếp hạng

Trọng số

rủi ro

0%

20%

50%

100%

150%

100%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

Áp dụng hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Á Châu - 4

(Nguồn: Basel Committee on Banking Supervision, 2004. International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards)

Bảng 3.2: Trọng số rủi ro cho các khoản vay của ngân hàng


Xếp hạng tín dụng

AAA

đến A-

A+ đến A-

BBB+

đến BBB-

BB+ đến B-

Dưới B-

Không xếp hạng

Trọng số rủi ro theo

tùy chọn 1

20%

50%

100%

100%

150%

100%

Trọng số

rủi ro theo tùy chọn 2

20%

50%

50%

100%

150%

50%


(Nguồn: Basel Committee on Banking Supervision, 2004. International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards)

Trong bảng 3.2, Ủy ban Basel đã đưa ra 2 phương án tính trọng số rủi ro để quản lý ngân hàng lựa chọn áp dụng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2022