Sơ Lược Về Ngân Hàng Tmcp Á Châu Và Hệ Thống Quản Trị Rủi Ro


CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU VÀ HỆ THỐNG QUẢN TRỊ RỦI RO


2.1 Giới thiệu sơ lược về ngân hàng TMCP Á Châu

2.1.1 Thông tin khái quát

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu có tên giao dịch tiếng Anh là Asia Commercial Joint Stock Bank (viết tắt là ACB) được chính thức đi vào hoạt động từ ngày 4 tháng 6 năm 1993. Trải qua nhiều lần tăng vốn, hiện nay theo báo cáo thường niên năm 2018, ngân hàng ACB đang có vốn điều lệ là 12.885.877.380.000 đồng. Trụ sở chính của ngân hàng được đặt tại số 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Số lượng nhân viên của ngân hàng ACB hiện nay vào khoảng 10.000 người.


2.1.2 Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu bộ máy tổ chức của ngân hàng TMCP Á Châu gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban tổng giám đốc cùng các ủy ban, phòng ban và các khối trực thuộc.

Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Ngân hàng. Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu, bãi nhiệm các thành viên của Hội đồng quản trị cũng như Ban kiểm soát.

Các ủy ban trực thuộc Hội đồng quản trị gồm có: Quản lý rủi ro, Chiến lược, Nhân sự, và Đầu tư.

Dưới sự quản lý của ban Tổng giám đốc là các phòng ban và các khối trực thuộc Hội sở và các chi nhánh, phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh phân bố trên khắp cả nước. Ngoài ra ngân hàng còn có các công ty con về quản lý nợ, quản lý quỹ, cho thuê tài chính, chứng khoán.



ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG

BAN KIỂM SOÁT

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

BAN KIỂM TOÁN NỘI BỘ

CÁC ỦY BAN VĂN PHÒNG HỘI

ĐỒNG QUẢN TRỊ

BAN TỔNG GIÁM ĐỐC

CÁC CHI NHÁNH VÀ PHÒNG GIAO DỊCH

VĂN PHÒNG DỰ ÁN CHIẾN LƯỢC

PHÒNG PHÁP CHẾ

CÁC HỘI ĐỒNG

PHÒNG ĐỐI NGOẠI

GĐTC VÀ CÁC PHÒNG TRỰC THUỘC

PHÒNG TỔNG HỢP

PHÒNG ĐẦU TƯ

PHÒNG THẨM ĐỊNH TÀI SẢN

BAN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG

PHÒNG QUẢN TRỊ TRUYỀN THÔNG VÀ THƯƠNG HIỆU

TRUNG TÂM PHÊ DUYỆT TÍN DỤNG TẬP TRUNG

PHÒNG QUẢN TRỊ TRẢI NGHIỆM KHÁCH HÀNG

PHÒNG THANH TOÁN NƯỚC NGOÀI

PHÒNG QUẢN LÝ NỢ

PHÒNG NGÂN HÀNG SỐ

KHỐI THI TRƯỜNG TÀI CHÍNH

KHỐI QUẢN LÝ RỦI RO

KHỐI VẬN HÀNH

KHỐI QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC

KHỐI QUẢN TRỊ KHỐI CÔNG NGHỆ

HÀNH CHÁNH

THÔNG TIN

KHỐI TÀI CHÍNH


Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức ngân hàng TMCP Á Châu


(Nguồn: tổng hợp từ Báo cáo thường niên ACB năm 2018)


2.1.3 Ngành nghề kinh doanh

Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng TMCP Á Châu bao gồm: huy động vốn từ khách hàng bằng tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn. Bên cạnh huy động vốn, hoạt động kinh doanh chính là cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá. Ngoài ra ngân hàng TMCP Á Châu cũng cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, cho thuê tài chính, đại


lý bảo hiểm, tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và cung cấp các dịch vụ khác. Ngân hàng còn kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán quốc tế.

Công ty chứng khoán ACB cũng thực hiện kinh doanh và tư vấn đầu tư chứng khoán, môi giới chứng khoán.


2.1.4 Mạng lưới kênh phân phối

Trong năm 2018, ngân hàng TMCP Á Châu đã mở thêm 4 phòng giao dịch, nâng tổng số chi nhánh và phòng giao dịch lên 358 đơn vị, hoạt động tại 47 tỉnh thành.

Thị phần tín dụng của ACB trên toàn quốc tăng 3 điểm phần trăm so với cùng kỳ, ước tính đạt trên 3% trong đó thị phần ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Bắc Trung Bộ cải thiện tích cực. Ngân hàng Á Châu tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho các thị trường chiến lược là thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Hà Nội.

2.1.5 Tình hình hoạt động kinh doanh

Bảng 2.1: Tình hình hoạt động kinh doanh ngân hàng TMCP Á Châu 2013- 2019

Đvt: tỷ đồng


Chỉ tiêu

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Q3-2019

Doanh thu

thuần

4.386

4.765

5.884

6.892

8.458

10.363

8.783

Lợi nhuận

sau thuế

826

952

1.028

1.325

2.118

5.137

4.448

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

Áp dụng hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Á Châu - 3

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu, Báo cáo tài chính)


Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2018 ngân hàng TMCP Á Châu cơ bản hoàn thành lộ trình giai đoạn 5 năm hoàn thiện hoạt động kinh doanh và xử lý vấn đề tồn đọng. Các chỉ tiêu kết quả trong năm 2018 đều vượt trên mức trung bình toàn


ngành, cho thấy sự tăng trưởng vượt trội và toàn diện, và tạo một nền tảng vững chắc cho các năm tiếp theo.

Kết quả đạt được năm 2018: thu nhập lãi thuần và thu nhập ngoài lãi đều tăng 23% góp phần khiến lợi nhuận trước thuế vượt 12% so với chỉ tiêu đề ra, đạt kết quả 6.398 tỷ đồng. ACB cũng đã từng bước đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu thu nhập, gia tăng doanh thu từ các dịch vụ để giảm bớt sự phụ thuộc vào tín dụng. Trong năm 2018, ngân hàng Á Châu tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ngân sách cho các công tác chiến lược như hạ tầng kỹ thuật công nghệ, thu hút đào tạo nhân sự. Tuy nhiên tổng chi phí vẫn nằm trong sự kiểm soát. Quy mô tổng tài sản được đẩy mạnh từ 284 nghìn tỷ đồng lên 329 nghìn tỷ đồng, tăng 16%. Dư nợ đạt 231 nghìn tỷ đồng, tăng 32 nghìn tỷ, tương đương 16% so với đầu năm. Huy động tăng 29 nghìn tỷ đồng, tương đương tăng 12%. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ, ngân hàng TMCP Á Châu vẫn luôn giữ vững khả năng thanh khoản với tỷ lệ dư nợ cho vay trên huy động khoảng 77%, thấp hơn quy định của NHNN là 80%; và tỷ lệ trái phiếu chính phủ luôn chiếm tỷ trọng trên 15% trong tổng tài sản. Dự phòng RRTD đạt 932 tỷ đồng, giảm 64% so với năm trước do năm 2017 ACB đã trích lập hết toàn bộ các tài sản tồn đọng của Nhóm 6 công ty. Dự phòng năm 2018 đã bám sát theo kế hoạch đề ra, phù hợp với chính sách chung của tập đoàn cũng như của NHNN. Tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 0,73% dưới mức 2% quy định.

Kết quả kinh doanh khả quan trong năm 2018 đã tạo ra nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Như vậy trong bối cảnh kinh tế vĩ mô khá ổn định, ACB đã có một năm hoạt động tăng trưởng an toàn, hiệu quả và ở một số tiêu chí thực hiện vượt kế hoạch.

Đến thời điểm hiện tại, ACB đã công bố báo cáo tài chính cho quý 3 năm 2019, cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh cũng có nhiều kết quả tích cực. Cụ thể, thu nhập lãi thuần trong 9 tháng đầu năm đã tăng 18% so với cùng kỳ, đạt 8.783 tỷ đồng. Trong đó lãi từ hoạt động dịch vụ đạt 1.410 tỷ, tăng 31%. Lợi nhuận sau thuế đạt 4.448 tỷ đồng. Dư nợ cho vay đến 30/9/2019 là 256.052 tỷ đồng, tăng 11,3%, huy động tiền gửi đạt 298.007 tỷ, tăng 10,4% so với đầu năm. Nợ xấu của ngân hàng ACB là


1.703 tỷ đồng và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ chỉ còn 0,67%. Như vậy ACB tiếp tục có 1 năm hoạt động hiệu quả và ổn định, các chỉ tiêu kinh doanh cũng như an toàn hoạt động đã gần đạt được mục tiêu của cả năm.

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Á Châu. Báo cáo thường niên năm 2018, và quý 3 năm 2019)

2.2 Hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng TMCP Á Châu

2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển

Từ năm 2012, ACB đã thành lập Khối quản trị rủi ro bao gồm bốn phòng: Phòng QTRR thị trường; Phòng QTRR vận hành, Ban chính sách và quản lý tín dụng; Bộ phận phân tích rủi ro, quản lý danh mục, hạ tầng công cụ và quản lý dự án. Đồng thời tiến hành xây dựng chính sách QTRR và tiến hành hoàn chỉnh cấu trúc thanh khoản vững chắc. Tuy nhiên, các rủi ro về thay đổi chính sách, rủi ro về pháp lý chưa được dự báo, đánh giá đúng mức để kiểm soát hữu hiệu. Kết cấu các phòng ban của Khối QTRR vẫn được giữ nguyên trong năm tiếp theo là năm 2013 với định hướng xây dựng danh mục tài sản an toàn, phù hợp với khẩu vị rủi ro của ACB. Trong năm 2014, bộ phận phân tích rủi ro, quản lý danh mục, hạ tầng công cụ & quản lý dự án được đổi tên thành phòng pháp chế và tuân thủ với mục tiêu đặt ra là kiểm soát hữu hiệu các rủi ro về thay đổi chính sách, pháp lý. Đến năm 2015, ban chính sách và quản lý tín dụng được đổi tên thành phòng quản lý RRTD, đồng thời phòng pháp chế và tuân thủ cũng được đổi tên thành bộ phận phòng chống rửa tiền. Kết cấu này được giữ nguyên cho đến thời điểm hiện tại. Các quy định về QTRR liên tục được tăng cường nhất là khi ngân hàng Á Châu được chọn là một trong mười ngân hàng thí điểm áp dụng Basel II. Ngân hàng đã có những động thái hết sức tích cực như chủ động cải thiện các tỷ lệ an toàn vốn (CAR) thông qua nhiều biện pháp như phát hành hơn ba nghìn tỷ trái phiếu vốn cấp 2 (Tier 2); chủ động theo dòi, quản lý danh mục cho vay từ nhiều mặt như kỳ hạn và ngành nghề cho vay với mục tiêu cải thiện hệ số tài sản có rủi ro; tiếp tục hoàn thiện các quy trình, chính sách và các hạn mức quản lý rủi ro nhằm phù hợp với quy định hiện hành của Ngân


hàng Nhà Nước và tiếp cận thông lệ quốc tế tốt. Khung quản lý rủi ro hoạt động được ban hành cùng với việc hình thành Hội đồng Quản lý rủi ro hoạt động nhằm hỗ trợ công tác QTRR tại ACB hiệu quả hơn.

2.2.2 Chức năng

- Chịu trách nhiệm xây dựng, triển khai và duy trì khung quản lý rủi ro.

- Đề ra các nguyên tắc, tiêu chuẩn, kỹ thuật, hạ tầng ứng dụng chung cho công tác quản lý, kiểm soát toàn diện các loại rủi ro.

- Chịu trách nhiệm thông đạt, thực thi các nguyên tắc QTRR trên toàn hệ thống.


2.2.3 Nhiệm vụ

- Xây dựng chính sách, tiêu chuẩn QTRR.

- Nghiên cứu, hoàn thiện, triển khai hạ tầng ứng dụng, kỹ thuật phân tích rủi ro, thông tin quản trị và quản lý danh mục.

- Đảm bảo tính sáng suốt, minh bạch trong các quyết định cân nhắc giữa lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng.

- Hoạt động khách quan, đảm bảo các quyết định về cân nhắc giữa rủi ro và lợi nhuận không bị tác động bởi các chỉ tiêu kinh doanh.

- Hỗ trợ Uỷ ban QTRR và các cấp lãnh đạo trong việc phát triển nhận thức về rủi ro, góp phần truyền đạt văn hoá rủi ro và các giá trị trong chức năng rủi ro cho toàn hệ thống.

- Đào tạo phát triển nguồn nhân lực liên quan đến công tác quản trị rủi ro.


2.2.4 Vấn đề biểu hiện về hoạt động QTRR tại ngân hàng ACB

Như vậy với việc ý thức được tầm quan trọng của công tác QTRR, ngân hàng TMCP Á Châu đã có những biện pháp kiện toàn hệ thống QTRR, và đã đem lại kết quả khả quan. Tuy nhiên đây chỉ là thành công bước đầu. Trong quá trình áp dụng, sẽ bắt đầu xuất hiện những vấn đề, những khó khăn mà ACB cần vượt qua để hoàn thiện hơn hệ thống quản trị rủi ro, tiến gần đến với những chuẩn mực của quốc tế.


Trên thực tế những thách thức ACB gặp phải đó là về mặt nhân sự, hạ tầng công nghệ, cũng như chính sách, quy trình tín dụng để đáp ứng được tiêu chuẩn Basel mà tác giả sẽ đi sâu phân tích ở những chương sau.


TÓM TẮT CHƯƠNG 2


Chương 2 giới thiệu sơ lược về ngân hàng TMCP Á Châu, cơ cấu tổ chức, ngành nghề kinh doanh, mạng lưới phân phối cũng như tóm tắt tình hình kết quả kinh doanh của ngân hàng trong thời gian vừa qua.

Nội dung chương nêu khái quát về hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng TMCP Á Châu qua các thời kỳ, từ đó nêu bật tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng và là cơ sở cho những trình bày chi tiết hơn trong chương 4 về thực trạng quản trị rủi ro tín dụng ở ngân hàng Á Châu.


CHƯƠNG 3: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HIỆP ƯỚC BASEL


3.1 Lý thuyết về quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

3.1.1 Những rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Đã có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về rủi ro. Theo Allan H. Willett: rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi. Một quan điểm hiện đại về rủi ro khác là của Frank H. Knight cho rằng: rủi ro là sự không chắc chắn có thể đo lường được. Cũng như một doanh nghiệp kinh doanh, ngân hàng thương mại cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro từ vi mô đến vĩ mô như sự cạnh tranh từ đối thủ, các sự cố hệ thống kỹ thuật, hay ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, lạm phát, khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những rủi ro đặc thù riêng mà các ngân hàng còn phải đối mặt trong lĩnh vực của mình. Những rủi ro này đang ngày càng đa dạng, phức tạp và ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính và sự hội nhập thị trường toàn cầu.

Những rủi ro một NHTM có thể gặp phải được Ủy ban Basel phân loại thành các nhóm sau: rủi ro danh tiếng, rủi ro pháp lý, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng.

Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế, công tác quản trị rủi ro ở ngân hàng yếu kém không những dẫn đến tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn ảnh hưởng hết sức tiêu cực đối với nền kinh tế. Ủy ban Basel đã chỉ ra rằng: Đối với lĩnh vực ngân hàng, rủi ro tín dụng được đánh giá là rủi ro chiếm tỷ trọng lớn nhất và luôn là một phần tất yếu trong các hoạt động kinh doanh cốt lòi. Chính vì vậy trong khuôn khổ bài luận văn này, tác giả tập trung đi sâu phân tích về rủi ro tín dụng và các hoạt động QTRRTD theo hiệp ước Basel II của ngân hàng ACB.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2022