nghị định này khi UBND thị xã Sơn Tây đã yêu cầu tổ chức lễ hội như sau: 1/ Lễ hội được tổ chức theo phong tục truyền thống, trang trọng, tôn nghiêm, đảm bảo đúng quy định; phần hội vui tươi, an toàn, tiết kiệm góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo tồn, phát huy giá trị của di tích; 2/ Đảm bảo tự do tín ngưỡng của nhân dân, không để hoạt động tôn giáo, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác xảy ra tại lễ hội; 3/ Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, ban, ngành, đơn vị liên quan thị xã Sơn Tây và huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong chỉ đạo, tổ chức lễ hội.
Bên cạnh yêu cầu hướng đến những giá trị truyền thống, tự do tín ngưỡng, tránh tệ nạn xã hội, UBND thị xã Sơn Tây còn yêu cầu lễ hội phải đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban từ cấp thị xã Sơn Tây và huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xuống đến các phường, xã. Thực tế cho thấy, sự phối hợp chặt chẽ này mặc dù nhằm phục vụ cho nhu cầu tổ chức lễ hội nhưng sẽ có những tác dụng cho chính quyền trong tổ chức các sự kiện kinh tế, chính trị hay văn hóa xã hội khác. Các sự kiện được thị xã Sơn Tây tổ chức như triển lãm, hội chợ… đều được đánh giá thành công và ít gây ra những sự cố đáng tiếc. Chúng ta không nói nguyên nhân thành công là do tổ chức lễ hội nhưng chắc chắn, nhìn từ góc độ tổ chức thì UBND thị xã Sơn Tây đã có kinh nghiệm tổ chức lễ hội. Kể từ năm 1999, tức là sau 42 năm gián đoạn lễ hội (1957-1999), lễ hội Đền Và được khôi phục lại, qua mỗi năm, cùng với cộng đồng, chính quyền đã dần phải học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm tổ chức, khắc phục những sai sót. Chìa khóa của sự thành công ở đây chính là sự phối hợp ăn ý của bộ máy chính quyền với các phòng ban chức năng. Dễ dàng nhận thấy, lễ hội được tổ chức càng nhiều, sự tham gia của chính quyền càng sâu thì kinh nghiệm chính quyền nhận được càng phong phú. Thực tế cho thấy, cái người ta nhìn vào hay đánh giá qua một kỳ tổ chức lễ hội đó chính là ở khâu tổ chức thành công hay không? Có xảy ra sự cố đáng tiếc nào không? Có đông người đến dự hội hay không? Có thu được tài chính nhiều không? Và những đánh giá này cho thấy công sức lớn của các phòng ban chính quyền. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc phân cấp quản lý đối với tổ chức lễ hội trên cả nước nói chung mà mỗi địa phương, căn cứ vào tình hình thực tế có những mô hình quản lý riêng. Lễ hội Đền Và vào năm chính được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu là hội lớn hay các năm thường là hội phụ thì mức độ huy động chính quyền tất nhiên cũng có sự khác biệt nhưng nhìn chung, các phòng ban chức năng đều được huy động tối đa, đảm bảo sự thực thi trơn tru bộ máy. Chúng ta thấy tổ chức lễ hội Đền Và chính là cơ hội cho chính quyền phân công rò nhiệm vụ của các phòng ban chức năng và đánh giá hiệu quả hoạt động của các phòng ban. Nhìn vào bảng phân công công việc trên, chúng ta thấy rò không có sự chồng chéo hay khoảng trống trong khâu tổ chức mà tất cả các nhiệm vụ đều được phân cấp để cụ thể hóa và có sự liên kết chặt chẽ giữa các phòng ban một cách hợp lý. Vì đây là
sự kiện văn hóa nên chịu trách nhiệm chủ trì là văn phòng HĐND, UBND, phòng Nội vụ phối hợp cùng với phòng Văn hóa và Thông tin. Ba phòng ban vừa chủ trì vừa chịu trách nhiệm chính trong việc tham mưu, thành lập BTC cũng như các kế hoạch chỉ đạo và báo cáo kết quả tổ chức lễ hội. Phòng Quản lý đô thị phối hợp với công an thị xã chuẩn bị phân luồng giao thông và đường bộ lẫn đường thủy để đảm bảo lễ rước an toàn thuận lợi, phối hợp với Công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô thị đảm bảo thông thoáng và giữ gìn môi trường nơi diễn ra lễ hội. Bên cạnh đó, 5 phường trong thị xã là Trung Hưng, Phú Thịnh, Viên Sơn, Ngô Quyền và Lê Lợi được phân công ở những mức độ quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau từ lễ tế đến lễ rước cũng như các trò vui chơi trong lễ hội.
Như vậy, quá trình phân công nhiệm vụ tổ chức vào hội chính cho UBND thị xã Sơn Tây chính là một ví dụ điển hình của vấn đề chính thống hóa vai trò của nhà nước. Sự tham gia của Nhà nước trong tổ chức chính là điều cần thiết bởi bản thân các cộng đồng chủ nhân, trong bối cảnh thể chế chính trị Việt Nam hiện nay cần có sự chính danh hay hợp pháp hóa các hoạt động bảo vệ di sản của cộng đồng. Chính thống hóa, Nhà nước hóa từ quan điểm của người dân cũng thể hiện sự quan tâm của các cấp chính quyền, từ đó làm chất xúc tác để người dân có ý thức và nỗ lực hơn trong việc bảo vệ di sản mà cha ông để lại. Chính thống hóa, mặt khác cũng tạo thuận lợi hơn cho công tác quản lý kể cả trong tổ chức lễ hội cũng như trong những hoạt động khác. Mặt khác, trong bối cảnh lễ hội có những biến đổi không ngừng cần có một quan điểm tỉnh táo để quản lý cộng đồng. Chính bản thân cộng đồng cũng thừa nhận, nếu không có sự tham gia của của chính quyền thì cộng đồng không thể tổ chức lễ hội với quy mô vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ như hiện nay được. Chỉ Nhà nước mới có thể đảm bảo các vấn đề về an ninh trật tự, an toàn vệ sinh môi trường cũng như là đầu mối kết nói các nhóm xã hội, các nhà tài trợ cho việc tổ chức và bảo tồn lễ hội.
2.2.1.2 Chính thống h a vai trò tổ chức của UBND phường Trung Hưng
Vào hội lệ, UBND phường Trung Hưng được coi là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội. Để lễ hội có thể diễn ra thành công, giống như UBND thị xã Sơn Tây, UBND phường Trung Hưng cũng thành lập ban chỉ đạo, điều hành lễ hội [chi tiết xem tại phụ lục]
Nhìn chung, trong tổ chức lễ hội Đền Và vào hội lệ, UBND phường Trung Hưng đã đáp ứng được những yêu cầu của bản kế hoạch tổ chức, đó là: 1/ Thực hiện đúng nghi lễ, phong tục truyền thống, đảm bảo thuần phong mỹ tục, chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống; 2/ Tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, kiên quyết bài trừ các hoạt động mê tín, dị đoan, các hủ tục lạc hậu, nạn ăn xin, rải tiền lẻ tràn lan, chú trọng công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông, vệ
Có thể bạn quan tâm!
- Lớp Văn Hóa Tín Ngưỡng Việt - Mường
- Diễn Trình Lễ Hội Đền Và Hội Chính Và Hội Lệ
- Vị Vua Của Làng Xã: Thành Hoàng Làng Đức Thánh Tản
- Đơn Vị Hành Chính Trên Giấy Tờ Và Tên Gọi Gốc Của Các Làng
- Vốn Xã Hội Trong Lễ Hội Đền Và Nhìn Từ Phương Diện Kinh Tế
- Từ Không Gian Vật Chất Đến Không Gian Thiêng [16, Tr.66]
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
sinh môi trường, đảm bảo an toàn phòng chống cháy, nổ trước, trong và sau lễ hội; 3/ Thực hiện đúng thời gian, nội dung chương trình lễ hội theo quy định của BTC.
Trách nhiệm của UBND phường Trung Hưng trong tổ chức lễ hội được thể hiện ở việc chỉ đạo nhân lực và chi kinh phí vào hội lệ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với Ban Tế: các cụ trông coi bên trong và bên ngoài Đền Và được UBND phường sắp xếp và lựa chọn theo quy trình ba bước: Bước 1. Các cụ trong làng đề xuất lên tổ trưởng tổ dân phố =>Bước 2. Tổ trưởng tổ dân phố đề xuất lên phường Trung Hưng => Bước 3. Phường căn cứ vào tình hình thực tế sẽ yêu cầu 9 làng cử người lên. Trừ cụ Sơn - chủ tế, chủ lễ Đền Và đã có nhiệm kỳ 14 năm không cần bầu lại thì tổng số lượng các cụ trông coi Đền Và dịp lễ hội là 1 cụ, chia thành 3 ca, với 2 ca ngày và 1 ca đêm. Một ca làm việc khoảng tiếng nhận được tiền công là 30.000 đồng. Vào tháng thường niên, số tiền mỗi cụ nhận được khoảng 300.000 đồng, còn vào mùa lễ hội khoảng 400.000 đồng. Ngoài ra, tiền bồi dưỡng trông coi, mỗi cụ trực ca ngày được nhận 50.000 đồng và ca đêm là 70.000 đồng. Tuy nhiên, số tiền của các cụ trực trong Đền Và ngoài đền có sự khác biệt. Các cụ trực bên trong được nhiều hơn bên ngoài. Thông thường, một tháng “các cụ trực bên trong được khoảng 1,3 triệu đến 1,4 triệu, còn các cụ bên ngoài chỉ được vài trăm” [phỏng vấn cụ N, chủ tế, chủ lễ Đền Và, tháng 01/2021].
Thứ hai, đối với đội ngũ làm vệ sinh: UBND phường phân công đội ngũ những người quét dọn tại đền được chia ra làm hai nhiệm vụ lao công: dọn d p trong Đền Và ngoài đền với sự tham gia của hai tổ chức khác nhau. Những người trong đền thường được lấy từ các làng trên tinh thần tự nguyện. Mỗi làng sẽ chia thành các đội như đội phụ nữ, đội hợp tác xã,…. những người dọn d p trong đền thường được lấy từ các đội này. Mỗi đội sẽ lấy 2 người, luân phiên mỗi ngày 1 đội khác nhau. Những người đi dọn d p trong đền chủ yếu là dọn d p ở khu vực sắp lễ, việc dọn sẽ diễn ra liên tục để người đến sau có chỗ xếp lễ sạch sẽ. Mỗi người đến dọn d p tại đây sẽ được hỗ trợ kinh phí từ đền là khoảng 200 nghìn đồng. Thời gian làm việc của những người này không có quy định chặt chẽ mà theo công việc và sự sắp xếp của người dân và trưởng thôn. Một số người làm việc ở hội Phụ nữ rồi được phân công về đây làm. Họ đã gắn bó với công việc ở đây đến chục năm với mức lương là khoảng 1 đến 2 triệu vào tháng thường với thời gian làm việc là từ 4 đến hay 7 giờ tối và 5 đến triệu vào tháng lễ hội nhưng cường độ làm việc vất vả hơn, cứ 1 tiếng họ lại phải quét một lần. Đội quét rác cũng có sự phân chia khu vực làm việc, tập trung chủ yếu vào khu vực của thôn Vân Gia, thôn Phù Sa là những nơi diễn ra những nghi lễ chính của lễ hội. Ngoài ra thì trong lễ hội còn có những người lao công dọn rác bên ngoài, họ được đội vệ sinh môi trường đô thị cử đến dọn rác của khách hành hương xả ra ngoài đền. Đây là một hoạt động miễn phí mang tính chất
công đức hàng năm của công ty môi trường đô thị Sơn Tây. Công ty cử khoảng 20 người, quét từ 3 giờ sáng đến 7 giờ sáng thì xong. Mỗi ngày công ty cắt cử 10 người vào quét tại đền trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Không thể phủ nhận rằng tuy hiện nay phần lớn khách hành hương đã có ý thức văn minh hơn, nhưng cũng có một số lượng không nhỏ vẫn vô ý thức, ăn uống xong vứt ngay ra giữa đường. Nhờ có những người dọn d p vệ sinh này mà cảnh quan bên ngoài đền luôn luôn sạch đ p.
Thứ ba, đối với các cụ viết sớ trong Đền Và: UBND phường phân công khoảng 3 người viết sớ, thời gian làm việc thường bắt đầu từ h30 sáng và thời gian kết thúc công việc khá linh động, tuỳ theo lượng khách vào đền. Mặc dù là ba người làm việc nhưng số lượng sớ viết của mỗi người có sự khác biệt. Trung bình mỗi người viết khoảng 150 sớ nhưng có người có kinh nghiệm và viết đ p thì sẽ viết với số lượng lớn hơn. “Như ông An hôm qua viết đến hơn 200 sớ. Tay lão làng, viết ghê thật. Ông ấy đi muộn nhất, toàn sau h30 mới đến mà lại được đông người viết nhất, cứ 2 đến 3 phút là một lá sớ” [Phỏng vấn cụ A, viết sớ tại Đền Và, tháng 01/2019].
Thứ tư, đối với kinh phí tổ chức: khi có lễ hội, làng chính cũng như làng phụ, được hỗ trợ triệu/ làng để lấy kinh phí làm lễ rước kiệu. Trước đây kinh phí này được lấy từ 1 mẫu ruộng chung của các làng.
Thứ năm, đối với cộng đồng: để hoạt động được tiến hành một cách thuận lợi thì việc cộng đồng được coi là yếu tố then chốt. Ý thức được điều này, UBND phường Trung Hưng phải làm thế nào để không riêng những người dân được làng cử ra lo liệu tổ chức mà tất cả những người được cử vào vai diễn trong hội, từ bối tế, chấp sự hay đội dọn d p vệ sinh đều có ý thức rò ràng về công việc của mình làm có liên quan đến cả cộng đồng mà nếu làm tốt sẽ được thánh ban phúc còn xấu thì tai vạ sẽ đến với cả làng. Chính quyền cần ý thức sâu sắc để liên kết, tác động đến sự đoàn kết cộng đồng, cho dù bất kể ai ở cương vị nào, công việc nào, dù làm một mình hay có mặt nhiều người thì đòi hỏi trách nhiệm và tự giác cao. Khi chuẩn bị các kiệu lễ vào lễ hội từ đình, trong đó Sơn Tây có phường Trung Hưng bao gồm 5 làng (Vân Gia, Mai Trai, Thanh Trì, Nghĩa Phủ và Ái Mỗ); phường Phú Thịnh bao gồm 2 làng thuộc Phú Nhi và phường Viên Sơn bao gồm làng Phù Sa cùng với đền Ngự Dội bên xã Vĩnh Ninh (Vĩnh Phúc). Các làng sẽ được BTC báo trước và sắp xếp vào đền trước 9 giờ sáng. Ngoại trừ ba kiệu chính là kiệu Văn, kiệu Lồng Mũ và kiệu Ngai có sẵn, được duy trì từ năm này sang năm khác thì các kiệu quả, kiệu hoa đều được chuẩn bị từ nguồn công đức của người dân.
Một vai trò nổi bật trong khâu tổ chức lễ hội của phường đó là tuyển chọn và sắp xếp các cụ từ vào làm việc trong di tích vào ngày thường, rằm mùng 1 và đặc biệt cụ từ này sẽ là chủ tế trong lễ hội. Về việc này, mặc dù hương ước hay văn bản giấy tờ không còn nhưng
thông qua phương thức truyền miệng, phường Trung Hưng đã vận hành được hoạt động này trong suốt thời gian dài. Chính vì thế, nhân vật không thể thiếu nhất trong lễ hội Đền Và là các chủ tế. Theo quy định của UBND phường Trung Hưng, chủ tế phải là người đức cao vọng trọng, được cả làng thống nhất bầu làm chủ tế cho làng. Mỗi làng có tiêu chuẩn bầu chủ tế riêng, tuy nhiên vẫn tuân theo một quy tắc chung: chủ tế phải là trong sạch, gia đình vợ chồng đầy đủ, trọn ven; trong gia đình không có bụi (có tang - cách nói địa phương) trong năm tổ chức lễ hội hoặc trước đó 1 năm; và chủ tế phải là người có kinh tế vững vàng, hằng năm luôn cống hiến cho làng cả vật chất và sức lực. Ban tế gồm 12 thầy tế hay còn gọi là người nhà quan, thường mặc áo xanh nước biển trong đoàn rước, và trong tầm tuổi từ 45-
0. Việc tuyển chọn các thầy tế cũng tuân theo tiêu chuẩn chọn chủ tế, và trên cơ sở sự tự nguyện của các chủ tế. Thầy tế mỗi năm đều có thể thêm vào hoặc không tham gia tùy vào hoàn cảnh, và không yêu cầu có kinh nghiệm những năm trước.
2.2.2. Củng cố và mở rộng các mối quan hệ xã hội
Với công cụ quản lý là tín ngưỡng và lễ hội thì một điều đương nhiên là chính quyền địa phương sẽ phải tìm cách để củng cố, nâng tầm địa vị của mình thông qua việc mở rộng quy mô lễ hội cũng như tầm ảnh hưởng của vị thánh. Bởi, một điều dễ hiểu là lễ hội càng lớn thì càng nhiều người đến tham dự và Nhà nước có thể coi đây là cách để củng cố và phát triển các mối quan hệ xã hội của mình. Lễ hội là một dịp để đại diện chính quyền, đoàn thể có dịp gặp gỡ, vui chơi và chúc mừng thành tựu của đơn vị bạn. Chính vì vậy, cách để củng cố và phát triển các mối quan hệ xã hội một cách hợp lý và có hiệu quả cao đó là lên danh sách khách mời và tiếp đón khách mời trong lễ hội. Bằng quyền lực của mình, tất nhiên, công việc này phải thuộc về các cơ quan Nhà nước. Xét trên phương diện quy mô thì trong lễ hội lớn vào năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, người ta có thể thấy đông đảo quan khách tham dự đến từ những khu vực lân cận cùng chung tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản như đền Thính, đền Thượng, đền Lăng Sương. Thông qua sự tham dự này, chính quyền thị xã Sơn Tây cũng đã hình thành và củng cố mối quan hệ của mình với những quan chức các vùng lân cận. Bản thân lễ hội Đền Và tháng Giêng và tháng Chín âm lịch với quy mô làng luôn có sự tham gia không thể thiếu của làng Duy Bình ở Vĩnh Phúc. Đó chính là sự kết nối quan hệ chính trị của hai địa vực cùng chung truyền thuyết về Đức Thánh Tản. Trên nền quan hệ xã hội đó, thị xã Sơn Tây vẫn có được thế chủ động của mình khi lễ hội Đền Và là lễ hội lớn nhất xứ Đoài. Điều này được biểu hiện qua nghi lễ tế thì Đền Và tế xong rồi đền Ngự Dội mới được vào tế, cả vào những năm lễ hội được tổ chức lớn hay nhỏ. Hơn nữa, đối với thị xã Sơn Tây hay huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc thì các làng cùng chung tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản hay chung lễ hội có nhiệm vụ phải đến tham dự lễ hội. Chính vì vậy, danh sách khách mời quan trọng được tính đến ở đây là những địa phương xa hơn, có chung nguồn gốc văn
hóa lịch sử như thờ Ngô Quyền (quận Hải An và Lê Chân (Hải Phòng), thành phố Đông Triều (Quảng Ninh) hay có quan hệ giao lưu kinh tế lâu đời như Bù Đăng, Bù Đốp (Bình Phước). Ngoài ra còn có đại diện thành phố, sở ban ngành… Việc tiếp đón khách mời ở đây chính là một cơ hội quan trọng để nâng cao mối quan hệ của Sơn Tây với các địa phương khác [Bảng phân công công việc đón tiếp khách mời của UBND thị xã Sơn Tây và UBND phường Trung Hưng năm 2017, 201 và 2019 xem tại phụ lục 6]. Nhìn vào bảng phân công công việc ở trên thì dễ thấy trách nhiệm phụ trách khách mời hầu hết thuộc về chính quyền. Vai trò của cộng đồng ở đây khá mờ nhạt, chỉ được thể hiện qua công việc chung chung của Hội phụ nữ là “cử cán bộ hội viên đảm bảo công tác tiếp tân, phục vụ lễ hội” [Phỏng vấn cô H, Bí thư chi bộ Tổ dân phố phường Trung Hưng, tháng 01/2021]. Những công việc quan trọng liên quan đến khách mời như điều hành đón tiếp, lập danh sách hay phát giấy mời đã thuộc về văn phòng thống kê, Ủy ban MTTQ và văn phòng HĐND cấp phường cũng như thị xã. Một điều dễ dàng nhận ra là tổ chức lễ hội Đền Và, đặc biệt vào năm chính là một cơ hội quan trọng để thúc đẩy mối quan hệ của chính quyền với các quận, huyện bạn. Trong các năm chính, danh sách khách mời được UBND thị xã Sơn Tây duyệt bao gồm: 1/ UBND Thành phố Hà Nội; 2/ Sở Văn hóa, Sở Tài chính; Sở Nội vụ; Sở Thông tin truyền thông; Sở Du lịch; 3/ Ban Quản lý danh thắng; 4/ Đại diện lãnh đạo quận huyện liên quan và quận huyện kết nghĩa [Phỏng vấn ông Nguyễn Huy Khánh, phó Bí thư Thường trực thị xã Sơn Tây, tháng 02/2017].
Những năm qua, Sơn Tây có kết nghĩa với quận Hải An và Lê Chân (Hải Phòng), thành phố Đông Triều (Quảng Ninh) do cùng liên quan đến Ngô Quyền (làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây là quê hương của Ngô Quyền cũng như còn lưu giữ di tích lăng và đền Ngô Quyền; Hải Phòng và Quảng Ninh là nơi lưu giữ di tích của chiến thắng Bạch Đằng lừng danh năm 93 của Ngô Quyền). Không những vậy, thị xã Sơn Tây còn có mối liên hệ với huyện Bù Đăng, Bù Đốp trong Bình Phước thông quan quan hệ giao lưu trao đổi kinh tế. Do xa xôi về điều kiện địa lý nên sự gặp gỡ giữa Sơn Tây với Bình Phước ít hơn so với hai địa phương còn lại. Chính quyền Sơn Tây có điều kiện gặp gỡ cũng như thắt chặt mối quan hệ kết nghĩa thông qua dịp đặc biệt là lễ hội Ngô Quyền. Ngoài lễ hội Ngô Quyền ra, do lễ hội Đền Và vào năm chính được tổ chức với quy mô cấp vùng nên đương nhiên khách mời không chỉ không thị xã mà còn vượt qua ngoài khuôn khổ thị xã để đến với những địa phương có sự kết nghĩa với Sơn Tây, đó chính là Hải Phòng và Quảng Ninh. Như vậy, việc tổ chức lễ hội chính là cơ hội để các bên cùng ôn lại những truyền thống văn hóa, lịch sử hào hùng của địa phương mình và truyền thống này có hoặc không hề liên quan đến di tích Đền Và hay Đức Thánh Tản. Thông qua việc mở rộng quy mô tổ chức lễ hội, chính quyền thị xã có thêm cơ hội kết nối và duy trì mối quan hệ của mình. Xét trên
phương diện quy mô tổ chức, lượng khách mời đến với lễ hội có thể cho thấy mối quan hệ của địa phương rộng hay h p như thế nào cũng như uy tín của các cấp chỉ đạo ở mức độ lớn/ nhỏ ra sao. Tất nhiên, mục đích của việc mở rộng quy mô lễ hội không đơn giản là để mở rộng mối quan hệ xã hội của các cấp lãnh đạo mà còn nhằm đạt đến sự đoàn kết, niềm tự hào trong cộng đồng, mở rộng không gian và tầm ảnh hưởng của vị thánh cũng như bảo lưu và phát huy giá trị tín ngưỡng mà luận án sẽ triển khai tại chương 3, nhưng nếu như chính quyền biết sử dụng một cách khéo léo nguồn lực khách mời trong khuôn khổ hợp lý của lễ hội thì đương nhiên, chính quyền có thể thông qua tổ chức lễ hội để duy trì mối quan hệ với các địa phương kết nghĩa như cách thị xã Sơn Tây đang duy trì.
2.3. “Sáng tạo truyền thống” và phân công xã hội
2.3.1. “Sáng tạo truyền thống”
Bàn về vấn đề khôi phục lễ hội, NCS cho rằng, Nhà nước đã rất thành công trong việc tạo lập VXH cho bản thân Nhà nước cũng như cộng đồng. Để tìm hiểu về phương thức khôi phục lễ hội truyền thống, luận án sẽ dựa vào hướng tiếp cận lý thuyết mới, đó là sáng tạo truyền thống qua góc nhìn của Hobsbawm. Theo Hobsbawm, sáng tạo truyền thống là một tập hợp các thực hành (thường chi phối bởi các quy tắc công khai hoặc ngầm chấp nhận và có tính chất nghi lễ hay tượng trưng) tạo dựng những giá trị nhất định và chuẩn mực về hành vi bằng cách lặp đi lặp lại liên tục với ngụ ý rằng chúng có liên quan đến quá khứ [148]. Vì việc khôi phục lễ hội này căn bản dựa trên lễ hội gốc nên luận án sẽ sử dụng cụm từ “sáng tạo truyền thống” và cụm từ này cũng sẽ được quay lại tại chương 3 và chương 4 của luận án. Từ đó, soi chiếu lại quá trình khôi phục lễ hội và vai trò của Nhà nước đối với tổ chức lễ hội Đền Và. Cụ thể, quá trình “sáng tạo truyền thống” của Nhà nước được tiến hành như sau:
2.3.1.1. Khôi phục lễ hội truyến thống
Đền Và là di sản cấp quốc gia được xếp hạng từ năm 19 4, tuy nhiên năm 1957 là lần rước cuối cùng sau khi thực hiện sự nghiệp cải cách ruộng đất, sau đó lễ hội Đền Và bị gián đoạn trong 42 năm. Kể từ năm 1999, sau 13 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, đất nước có điều kiện về cơ sở vật chất, văn hóa tinh thần cũng như nhận thức của nhân dân về vấn đề tâm linh, chính quyền nhận thấy yêu cầu bức thiết phải lập lại lễ hội bởi đây là tập tục truyền thống từ ngàn xưa. Chính quyền địa phương họp bàn kế hoạch lập lại lễ hội. Khó khăn lớn nhất chính quyền gặp phải đó là là những văn bản cổ về lễ tục, lễ nghi và công tác tổ chức không còn gì cả mà chỉ là truyền miệng trong nhân dân. Chính quyền phải tập hợp cộng đồng làng là những người am hiểu về lễ hội, về truyền thống địa phương. Năm 1999 là năm đầu tiên tổ chức sau 42 năm được đánh giá là rất thành công, bởi đó là khát khao từ bao đời của nhân dân cùng với quyết tâm của cấp Ủy , chính quyền. “Mỗi một năm, chính quyền hoàn chỉnh kế hoạch tổ chức thêm những cái chưa biết, những cái mới, những cái cần bổ
sung. Cho đến nay, c thể coi như lễ hội đã hoàn chỉnh hoàn toàn” [Phỏng vấn cụ N - chủ tế, chủ lễ Đền Và, tháng 01/2021]. Có thể thấy, chính các nghi lễ cổ truyền được phục hồi là nguồn văn hóa, đạo đức quan trọng, thông qua đó Nhà nước có thể duy trì và củng cố quyền lực của mình. Công tác khôi phục lễ hội vào năm 1999 cho thấy chính quyền thị xã Sơn Tây rất quan tâm đến việc “sáng tạo văn hóa” địa phương. Việc phục hồi nghi lễ cổ truyền này chính là thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào các sinh hoạt văn hóa xã hội. Việc ban hành các văn bản quy định kế hoạch tổ chức lễ hội hay quản lý di tích cũng cho thấy quyền lực của Nhà nước đã được văn bản hóa để truyền tải đến cộng đồng. Từ năm 1999 đến nay, chính quyền phường Trung Hưng đã có chính xác là 21 văn bản ban hành về kế hoạch tổ chức hội chính và hội lệ cùng với 5 văn bản về quy chế quản lý di tích Đền Và, thị xã Sơn Tây ban hành văn bản về kế hoạch tổ chức hội chính. Có thể nhận thấy, sau khi Đổi mới, việc ban hành các quy định cụ thể này đã trở nên phổ biến. Việc đó đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương về việc khôi phục các lễ hội cổ truyền và là kết quả của những nỗ lực của Nhà nước trong việc dùng quyền lực để thiết lập cơ cầu quản lý và tổ chức lễ hội này.
Việc lễ hội Đền Và được khôi phục sau 42 năm đã cho thấy những cố gắng và nỗ lực không ngừng của chính quyền bởi, theo như thông tin điền dã thì sinh hoạt tín ngưỡng Đền Và chỉ còn là những “mảnh vỡ” khó có thể phục hồi theo truyền thống trước đây, Trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, chính sách nhà nước về tín ngưỡng truyền thống cũng như tổ chức lễ hội đã thay đổi giữa các làng, các vùng miền để tạo tiếng vang cho lễ hội làng mình thì việc “sáng tạo truyền thống” của UBND thị xã Sơn Tây đã khơi dòng cho văn hóa truyền thống của cộng đồng được tiếp tục, đem đến sức sống niềm tin và sự đoàn kết trong cộng đồng, cũng như tiếp tục gợi nhắc cho thế hệ sau về nguồn gốc quá khứ của cha ông. Quá trình ấy đã đem lại cái nhìn tích cực cho Nhà nước: Nhà nước tôn trọng quyền tự quyết của cộng đồng, đem lại lợi ích cho cộng đồng trên cơ sở khẳng định quyền sở hữu và quyền kế thừa di sản cho cộng đồng địa phương. Dưới góc nhìn lý thuyết của Eric Hobsbawm, sự sáng tạo truyền thống (như đối với công tác khôi phục lễ hội Đền Và của Nhà nước) là một hiện tượng khá phổ biến không chỉ ở những quốc gia hậu xã hội chủ nghĩa (post-socialist) mà còn tồn tại ngay ở cả những xã hội phát triển cao như nước Anh hay nước Nhật. Để làm rò hơn quá trình sáng tạo truyền thống qua tổ chức lễ hội Đền Và, chúng ta cần kết nối các bên liên quan (Nhà nước tại chương 2 và cộng đồng tại chương 3). Qua đó xác định vai trò của mỗi bên đối với quá trình khôi phục và tổ chức lễ hội. Qua đó, chúng ta cũng có thể khẳng định lại cơ sở hình thành VXH từ mỗi bên có sự tương đồng và khác biệt như thế nào.
2.3.1.2. Mở rộng quy mô lễ hội
Năm 2017 có thể coi là năm đặc biệt nhất đối với cộng đồng cư dân khu vực Đền Và nói riêng và thị xã Sơn Tây nói chung. Bởi đây là năm đầu tiên lễ hội Đền Và được tổ