Hiệu Ứng Tích Cực Và Tiêu Cực Của Vốn Xã Hội Đối Với Nhtm


khách hàng; hoặc nếu giải ngân bằng cách báo có vào tài khoản của khách, sau đó khách hàng có thể sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản để thanh toán tiền hàng. Việc sử dụng dịch vụ kèm theo này đem đến cho khách hàng sự thuận tiện trong thanh toán, đồng thời ngân hàng cũng có lợi khi vừa cho vay, vừa cung ứng dịch vụ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tương tự trong trường hợp khách hàng sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng, khách hàng sẽ sử dụng các dịch vụ hoặc sản phẩm của các đối tác liên kết với ngân hàng để được chấp nhận thẻ, trong trường hợp này ngân hàng vừa cung ứng được sản phẩm thẻ tín dụng cho khách hàng vừa được hưởng hoa hồng chiết khấu từ đối tác).

Như vậy, hoạt động nguồn vốn tác động trực tiếp đến hoạt động sử dụng vốn, mà hoạt động sử dụng vốn lại tác động trực tiếp tới hoạt động cung ứng dịch vụ, nghĩa là hoạt động nguồn vốn tác động gián tiếp đến hoạt động cung ứng dịch vụ thông qua hoạt động sử dụng vốn với hệ số chuẩn hóa là 0,233 (0,518 x 0,450 = 0,233). (Chẳng hạn khách hàng có gửi tiết kiệm tại ngân hàng, sau đó khách hàng này dùng chính sổ tiết kiệm này cầm cố cho ngân hàng để xin vay tiền, thanh toán tiền hàng cho nhà cung cấp, vậy ngân hàng sẽ cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cho khách hàng này luôn).

Ngược lại, khi hoạt động cung ứng dịch vụ phát triển cũng hỗ trợ cho hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn phát triển theo. Thật vậy, trong quá trình thực hiện các dịch vụ như thu hộ, ủy thác...sẽ tạo điều kiện tập trung được một lượng tiền thông qua đó bổ sung cho hoạt động nguồn vốn và đồng thời phát triển hoạt động sử dụng vốn (bổ sung tạm thời nguồn vốn để tiến hành cho vay).

Rõ ràng các hoạt động của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Do đó kết quả của hoạt động này có tác động ý nghĩa đến kết quả của các hoạt động còn lại.

Nói tóm lại, vốn xã hội của ngân hàng có tác động vừa trực tiếp vừa gián tiếp đến các hoạt động của ngân hàng, thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hoạt động của ngân hàng. Cụ thể thông qua các mối quan hệ xã hội của lãnh đạo sẽ giúp ngân hàng huy động vốn tốt hơn. Nhờ tiết kiệm được chi phí giao dịch, chi phí


thông tin giúp ngân hàng có thể huy động vốn nhiều, chi phí rẻ (như tận dụng được nguồn vốn giá rẻ từ kho bạc Nhà nước) từ đó ngân hàng có khả năng cho vay nhiều hơn với giá cạnh tranh, tăng kết quả hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, phí giao dịch của ngân hàng cũng cạnh tranh hơn, giúp đẩy mạnh kết quả hoạt động cung ứng dịch vụ, thu hút được khách hàng.

Có thể nói mối quan hệ là khởi đầu cho người lãnh đạo trong việc đem lại các lợi ích cho ngân hàng. Đã là người lãnh đạo, trải qua một quá trình dài cống hiến, bản thân người lãnh đạo đã có nền tảng các mối quan hệ bền vững, điều này cũng góp phần tạo dựng được lòng tin của khách hàng, để thông qua đó đẩy mạnh các hoạt động của ngân hàng. Nhờ các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo giúp tăng kết quả hoạt động, giảm chi phí thông tin, chi phí giao dịch (Levine 1997; Vega-Redondo 2006) và giảm sự bất đối xứng thông tin (Boot 2000; Ferrary 2003 trích trong Manuel Pastor & Emili Tortosa-Ausina 2008, Houston et al 2010). Thông qua các mạng lưới xã hội bên ngoài ngân hàng giúp cung cấp thông tin chính xác, cần thiết và nhờ vậy góp phần làm giảm các chi phí giao dịch cho các bên tham gia mạng lưới (Nguyễn Vũ Quỳnh Anh 2014). Hơn nữa, thông qua các mạng lưới quan hệ bên trong sẽ giúp cải thiện bầu không khí làm việc, sẵn sàng chia sẻ, hỗ trợ nhau kiến thức cho nhau, giúp gia tăng tinh thần đoàn kết, góp phần nâng cao hiệu quả công việc của tổ chức (Marcinkowska 2012, trích trong Joanna Wyrwa 2014). Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp là giá trị của mối quan hệ giữa các cá nhân/nhân viên trong quá trình thực hiện mục tiêu của tổ chức và chính mỗi cá nhân đóng góp trong việc tăng cơ hội tạo ra giá trị cho doanh nghiệp (Anna Piettruszka – Ortyl 2015, trích trong Marek Makowiec & Tomasz Kusio 2015).

4.7.5 Hiệu ứng tích cực và tiêu cực của vốn xã hội đối với NHTM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

4.7.5.1 Hiệu ứng tích cực của vốn xã hội đối với ngành ngân hàng

Từ kết quả nghiên cứu ở trên đã khẳng định tác động tích cực của vốn xã hội đối với hoạt động của các NHTM. Qua đó tạo ra các hiệu ứng tích cực cho ngành ngân hàng Việt Nam, thể hiện ở các khía cạnh sau:

Đánh giá tác động của vốn xã hội đến hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 17


Thứ nhất, thông qua việc chấp nhận giả thuyết H1, cho thấy vốn xã hội của ngân hàng có tác động trực tiếp đến hoạt động nguồn vốn của NHTM (hoạt động nguồn vốn có biến quan sát HD42 và HD43 đề cập đến khả năng huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các nhân và các tổ chức kinh tế). Nói cách khác, vốn xã hội có đóng góp tích cực, hỗ trợ hoạt động huy động vốn cho các NHTM (tạo vốn cho NHTM). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Zang & Fung (2006), các tác giả này đã chứng minh thông qua các mạng lưới quan hệ xã hội hỗ trợ tạo vốn cho các hoạt động kinh tế của tổ chức.

Thứ hai, đối với các hoạt động của ngân hàng, vốn xã hội có đóng góp tích cực thông qua việc thúc đẩy sự hợp tác và cắt giảm chi phí giao dịch. Điều này đã được giải thích trong phân tích ở trên, khi có sự phối hợp tốt giữa các cá nhân, các phòng ban sẽ giúp các hoạt động của ngân hàng được trôi chảy thuận lợi ở các khâu, mang lại hiệu quả công việc cao nhất. Chi phí giao dịch là vấn đề đáng quan tâm của các NHTM, thông qua các mạng lưới quan hệ xã hội giúp tiết kiệm chi phí này, sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả dịch vụ cho các NHTM. Qua nghiên cứu thực nghiệm, các tác giả Fernandez (2011) và Ross (2011) trích trong M. Pastor & E. T. Ausina (2008) thì chứng minh rằng nhờ các mạng lưới quan hệ xã hội (vốn xã hội) góp phần cắt giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Theo Levine (1997); Vega – Redondo (2006), trong xã hội có nguồn vốn xã hội cao, niềm tin vào thị trường và các tổ chức tài chính cũng như ngân hàng cao, sự bất đối xứng về thông tin giảm (tương tự là quan điểm của Ferrary 2003 trích trong Manuel Pastor & Emili Tortosa- Ausina 2008), chi phí thông tin, chi phí giám sát và chi phí giao dịch giảm. Cũng theo Boutilier (2009), vốn xã hội giúp giảm chi phí sản xuất của tổ chức. Tương tự là kết quả nghiên cứu của tác giả Martha & Howard (2011), cũng đã chỉ ra thông qua vốn xã hội giúp cho các hoạt động kinh tế được diễn ra thuận lợi, trôi chảy và nâng cao hiệu quả hợp tác. Nhờ các mạng lưới xã hội giúp cung cấp thông tin chính xác, cần thiết và nhờ vậy góp phần làm giảm các chi phí giao dịch cho các bên tham gia mạng lưới (Nguyễn Vũ Quỳnh Anh 2014).


Ngoài ra, theo Banfield (1958), trích trong Xie Wenjing (2013), vốn xã hội có ảnh hưởng đến cả hành vi của người đi vay và người cho vay. Nếu niềm tin là một thái độ đạo đức và nền kinh tế có vốn xã hội cao, người lãnh đạo của tổ chức sẽ lãnh đạo nhân viên của mình hạn chế hành vi vi phạm đạo đức và hành xử đúng chuẩn mực, dẫn đến giảm rủi ro vi phạm hợp đồng trong giao dịch với ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng (như tăng thiện chí trả nợ, giảm rủi ro tín dụng cho ngân hàng). Đối với ngân hàng, vốn xã hội có thể giúp giảm chi phí của các hợp đồng tài chính, cải thiện hiệu quả của hợp tác và làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, giúp các ngân hàng đi qua những rắc rối và tránh phá sản. Hơn nữa, trong ngành ngân hàng, chi phí lao động và chi phí thời gian rất cao. Thông qua các mạng lưới xã hội, góp phần cắt giảm bớt các khoản chi phí này, từ đó giảm lãi suất cho vay, giảm chi phí dịch vụ, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các đối thủ trên thương trường.

Thứ ba, thông qua việc chấp nhận giả thuyết H2 và H3, cho thấy vốn xã hội có tác động trực tiếp vào hoạt động sử dụng vốn và hoạt động cung ứng dịch vụ. Điều này có thể được giải thích thông qua các mạng lưới quan hệ xã hội với các chủ thể bên ngoài ngân hàng, giúp ngân hàng tiếp nhận được nguồn thông tin và chuyển giao tri thức (bên trong và bên ngoài ngân hàng) giúp cho các hoạt động của ngân hàng được thuận lợi và cập nhật kịp thời các tri thức để phục vụ cho các hoạt động ngân hàng (Tansley & Newell 2007; Karahanna & Preston 2013; Khadigeh Mozafari & Ibrahim Dadfar 2016). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả thực nghiệm của Scupola & cộng sự (2009), các tác giả này đã chỉ ra thông qua vốn xã hội giúp tăng khả năng tiếp cận thị trường, tiếp cận các đối tác, nguồn thông tin hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Tương tự là quan điểm của Adler & Kwon (2002); Leana & Pil (2006), các tác giả cho rằng vốn xã hội tạo điều kiện tiếp cận với các nguồn thông tin rộng hơn và chất lượng hơn. Các kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Altman & Taylor (1973); Feld (1981) trích trong Hongseok & các tác giả (2004). Tác giả Najaran (2006); James S.Boles (2011), cũng đã chỉ ra vốn xã hội giúp doanh nghiệp tiếp nhận được thông tin, chuyển giao kiến thức phục vụ cho các hoạt động


của doanh nghiệp. Cũng theo Houston et al (2010), vốn xã hội có thể giúp tăng số lượng và chất lượng thông tin, qua đó giúp ngân hàng phân tích hiệu suất của công ty (khách hàng vay vốn) và giải quyết vấn đề bất đối xứng thông tin.

Quan trọng hơn nữa, sự tin tưởng tích lũy theo thời gian và có đi có lại giữa hai bên có khả năng tác động các công ty chuyển sang giao dịch hẳn với ngân hàng cho các giao dịch và nhu cầu tài chính trong tương lai (niềm tin tác động hành vi đối ứng) (Chuang & Lin 2008). Quan hệ khách hàng lâu dài làm giảm chi phí kiểm tra tín dụng của ngân hàng và thu thập thông tin về các khách hàng này, do đó làm giảm chi phí giao dịch (Chuang & Lin 2008; Witt 2004). Cũng theo Witt (2004), các ngân hàng không chỉ cung cấp mức giá thấp hơn nếu họ đã quen thuộc với khách hàng của họ trong một thời gian dài, họ cũng có khuynh hướng làm như vậy nếu khách hàng đó mua nhiều hơn một đề nghị sản phẩm (dịch vụ) từ ngân hàng. Điều này, khuyến khích khách hàng giao dịch và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn và lâu dài hơn, đem lại lợi nhuận và hiệu quả cho ngân hàng.

4.7.5.2 Hiệu ứng tiêu cực của vốn xã hội đối với ngành ngân hàng

Bên cạnh các hiệu ứng tích cực của vốn xã hội đối với ngành ngân hàng, còn tiềm ẩn các hiệu ứng tiêu cực. Biểu hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, mối quan hệ của lãnh đạo ngân hàng với quan chức Nhà nước các cấp, được cho là bên cạnh những đóng góp tích cực vào kết quả các hoạt động của ngân hàng thì còn gây hiệu ứng tiêu cực cho ngành ngân hàng vì thể hiện sự bất bình đẳng trong ứng xử của quan chức Nhà nước các cấp đối với các NHTM (Alexi Danchev 2006; Bonin và ctg 2005; Gursoy & Aydogan 2002; Najid & Rahman 2011). Điều này cũng phù hợp tại Việt Nam, khi một thông tư hay điều luật được ban hành thì đều áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng, tuy nhiên nhờ có các mối quan hệ nên có thể có những NHTM đã tiếp cận thông tin sớm và họ đã có sự chuẩn bị trước, do đó khả năng đối phó với những thách thức hay đón nhận các cơ hội cũng cao hơn.

Ngoài ra, trong thời gian qua chúng ta thấy có quá nhiều tiêu cực trong ngành ngân hàng, thể hiện qua các vụ án của ngành ngân hàng, mà chính người lãnh đạo ngân hàng lại vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ để tham nhũng, gây thất thoát hàng


ngàn tỷ đồng cho ngân hàng và cho nền kinh tế. Có thể nói, hầu hết các tiêu cực của ngành ngân hàng trong thời gian qua đều gắn liền với các quan hệ xã hội bao gồm cả quan hệ của lãnh đạo ngân hàng.

Thứ hai, các mạng lưới quan hệ bên ngoài ngân hàng, cụ thể là mối quan hệ của ngân hàng với chính quyền các cấp, được cho là bên cạnh những đóng góp tích cực vào kết quả các hoạt động của ngân hàng thì còn gây hiệu ứng tiêu cực cho ngành ngân hàng vì thể hiện sự bất bình đẳng trong ứng xử của chính quyền các cấp đối với các NHTM (Alexi Danchev 2006; Bonin và ctg 2005; Gursoy & Aydogan 2002; Najid & Rahman 2011). Điều này được giải thích do mối quan hệ với chính quyền các cấp ngoài việc hỗ trợ an ninh, thủ tục pháp lý với các chi nhánh ngân hàng đặt trụ sở trên địa bàn họ quản lý, thì còn có ý nghĩa đến hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng (chính quyền sẽ giới thiệu khách hàng, dự án cho ngân hàng hoặc bản thân họ cũng là khách hàng của ngân hàng). Mạng lưới quan hệ này sẽ gây hiệu ứng tiêu cực với thị trường ngành ngân hàng, do còn thiếu tính “bình đẳng” giữa các NHTM, nhất là giữa NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần (Alexi Danchev 2006). Thật vậy, tại Việt Nam, NHTM Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước, trách nhiệm phối hợp với chính quyền các cấp sẽ rõ ràng và gắn bó hơn so với NHTM cổ phần và ngân hàng nước ngoài. Thực tế việc lựa chọn ngân hàng để gửi tiền hay vay vốn, cũng bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ này. Khi các quận/huyện có dự án phải bồi thường để lấy mặt bằng, thì kho bạc sẽ phối hợp ban quản lý dự án quản lý số tiền đền bù phải trả cho người dân. Trong thời gian khoản tiền này chưa chi trả cho người dân, ban quản lý dự án sẽ lựa chọn một chi nhánh ngân hàng để gửi tiền. Rõ ràng việc lựa chọn ngân hàng nào, còn phụ thuộc vào mối quan hệ với chính quyền các cấp. Việc này sẽ dẫn tới phong trào thiết lập mối quan hệ với quan chức, chính quyền các cấp để tiếp cận thông tin, dự án, hơn là tập trung cải tiến công nghệ ngân hàng.

Thứ ba, các mạng lưới quan hệ bên trong ngân hàng, ngoài hiệu ứng tích cực là thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân, các phòng ban bên trong ngân hàng và góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng, còn có tác động tiêu cực khi hạn chế phát triển ý tưởng mới, dẫn đến chủ nghĩa quán tính (Gargiulo & Bernassi 1999;


Hoàng Bá Thịnh 2009; Nguyễn Đức Chiện 2013). Điều này cũng ảnh hưởng đến kết quả các hoạt động của ngân hàng. Thực tế, trong quy trình thẩm định tín dụng tại ngân hàng, khi công việc giao cho một nhóm thẩm định, đã làm việc lâu năm với nhau, đôi khi nhận định chủ quan ở một khâu dẫn đến khâu khác cũng phụ thuộc kết quả thẩm định ở khâu trước, đưa đến việc quyết định cho vay hoặc không cho vay chưa chính xác, chứa đựng nhiều rủi ro. Thêm vào đó, cũng tồn tại tác động tiêu cực của vốn xã hội đối với hành vi của người cho vay. Khi ban lãnh đạo ngân hàng đưa ra quyết định về việc cho vay, họ có thể tự tin hơn đối tác của họ và quyết định bất cẩn do kết quả của vốn xã hội. Trong khu vực vốn xã hội cao, sự tin tưởng lẫn nhau cũng cao hơn. Sự công nhận này có thể ảnh hưởng đến sự phán xét của ngân hàng và để người quản lý ngân hàng phân loại tài sản hiệu suất kém thành bình thường hoặc tài sản tốt. Điều này cũng dẫn đến quyết định duyệt cho vay là không chính xác ( Xie Wenjing 2013).

Cũng theo Hoàng Bá Thịnh (2009), khi các liên kết bên trong một mạng lưới các quan hệ không được bổ sung hay hạn chế sự liên kết với các mạng lưới xã hội khác, thì sẽ dẫn đến tính thiển cẩn và bảo thủ, có thể dẫn đến là vật cản cho sự phát triển. Hay nói cách khác, trong ngân hàng khi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài thì bản thân ngân hàng phải liên tục cải thiện, cập nhật để nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời các nhân viên cũng phải nâng cao trình độ để theo kịp xu hướng phát triển và tạo ra giá trị khác biệt cho ngân hàng trong cạnh tranh.

Ngoài ra, trong thời gian qua chúng ta thấy có hàng loạt các vụ án nghiêm trọng của ngành ngân hàng, gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế và xã hội. Có những vụ án do sự cấu kết giữa một số bộ phận, một số cá nhân trong ngân hàng vi phạm pháp luật, cùng cấu kết để tham nhũng, hoặc có những khoản vay không đảm bảo thu hồi được nợ nhưng vẫn phối hợp giữa các khâu trong giải quyết việc cho vay, dẫn đến hậu quả gây khó khăn cho ngân hàng trong thu hồi nợ, làm nợ xấu ngân hàng tăng cao, gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Có thể nói, hầu


hết các tiêu cực của ngành ngân hàng trong thời gian qua đều gắn liền với các mối quan hệ xã hội bao gồm cả quan hệ bên trong ngân hàng.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí