Lớp Văn Hóa Tín Ngưỡng Việt - Mường


Tổng kết lại, hướng tiếp cận của luận án sẽ được triển khai như sau:


1. Cơ chế hình thành và sự chuyển hóa, lợi ích của các loại vốn

* Cơ chế hình thành

(1) VXH là sản phẩm của việc xây dựng và sở hữu một mạng lưới quan hệ xã hội.

(2) Có thể hữu hình hoặc tiềm ẩn trong các quan hệ xã hội tuỳ theo cách vận dụng của chủ thể hành động.

(3) Các mạng lưới quan hệ xã hội được thể chế hóa thông qua các nhóm và tổ chức xã hội, từ đó cho phép các thành viên hưởng lợi từ các mối quan hệ nhóm.

* Sự chuyển hóa và lợi ích của các loại vốn

(1) Muốn có vốn văn hóa người ta cần phải đầu tư VXH và vốn kinh tế.

(2) Muốn có VXH, người ta cũng phải đầu tư vốn kinh tế và vốn văn hoá.

(3) Muốn có vốn kinh tế, người ta cũng phải đầu tư vốn văn

hóa và VXH.

2. Các thành tố của VXH

(1) Hệ thống các mạng lưới xã hội

(2) Niềm tin của con người trong xã hội

(3) Khả năng kết nối để thực hiện công việc trong xã hội

(4) Chuẩn mực xã hội.

3. Môi trường tạo lập và sử dụng VXH

Xã hội nào có VXH nấy

(1) Xã hội cổ truyền

(2) Xã hội hiện đại

4. Cách đo lường VXH

Hành động tập thể

Các giá trị chuẩn mực của nền văn hóa xã hội Mạng lưới xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.

Vốn xã hội trong lễ hội Đền Và ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội - 6

Dựa trên những kết quả nghiên cứu của các học giả nói trên, luận án cho rằng, mỗi một nhà nghiên cứu với đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau sẽ tiếp cận chức năng, vai trò của VXH ở các góc độ không như nhau. Trong luận án của mình, NCS không tiếp cận chức năng, vai trò của VXH trên phương diện chính sách, cũng không nghiên cứu vai trò của VXH với việc kiểm soát xã hội của Robert Putnam hay hay giáo dục trong gia đình và cộng đồng của James Coleman... mà luận án nghiên cứu cơ sở hình thành, biểu hiện (tạo lập và sử dụng) VXH trong lễ hội Đền Và cũng lợi ích của VXH mà Nhà nước và cộng đồng có được thông qua lễ hội Đền Và. Tuy nhiên, bản chất của tín ngưỡng và lễ hội là được hình thành từ trong xã hội nông nghiệp cổ truyền và duy trì đến xã hội hiện đại với những


khác biệt về thể chế chính trị, nhóm đoàn thể của Nhà nước cũng như tổ chức cộng đồng. Chính vì vậy, luận án đặt Nhà nước và cộng đồng trong hai bối cảnh xã hội đó để phân tích phương thức tạo lập cũng như những nguồn lợi mà hai nhóm này có được từ việc tham gia vào sinh hoạt tín ngưỡng cũng như tổ chức và quản lý lễ hội Đền Và.

1.2.2.2. Khung phân tích của luận án


Chuẩn mực xã hội Niềm tin của cộng đồng


VXH của Nhà nước và cộng đồng trong lễ hội Đền Và


Các mối quan hệ của các bên liên quan


Vốn văn hóa

Vốn biểu tượng

Vốn kinh tế


Hệ thống các nguyên tắc, thể chế quy định tổ chức và giá trị chuẩn mực

Giá trị về danh dự, uy tín và sự công nhận nhân vật phụng thờ

Loại hình kinh tế và lợi ích kinh tế


Tín ngưỡng

Hệ tư tưởng

Biểu tượng Đức Thánh Tản

Các nghi thức biểu đạt

Loại hình kinh tế sơ khai

Tiêu thụ sản phẩm trong lễ hội


Lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội cho các bên liên quan


1.3. Khái quát về lễ hội Đền Và

1.3.1. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản

Theo tác giả Nguyễn Xuân Diện, thần tích Sơn Tinh Đức Thánh Tản chính là sự hội nhập của những mảnh vỡ của huyền thoại Đức Thánh Tản trong lịch sử. Từ sự nhận thức về tính nguyên hợp trong thần tích Sơn Tinh Đức Thánh Tản, chúng ta sẽ có một cách tiếp cận thẩm mỹ phù hợp và đi đến chỗ “bóc tách nhiều tầng văn hóa đã chống chất lên nhau hoặc kết dính với nhau. Góc nhìn ấy sẽ cho thấy sự phát triển của hình tượng Sơn Tinh Đức Thánh Tản, cũng như các lớp trầm tích văn hóa ẩn sâu trong mỗi biểu hiện của hình tượng” [23, tr.4 ]. Theo tác giả, có ba lớp văn hóa tồn tại ở hình tượng này, đó là lớp văn hóa tín ngưỡng Việt - Mường, lớp văn hóa Đạo giáo và lớp văn hóa Nho giáo. Sự phát triển của hình tượng Đức Thánh Tản cũng như các lớp trầm tích văn hóa ẩn sâu trong mỗi biểu hiện của hình tượng.

- Lớp văn hóa tín ngưỡng Việt - Mường: việc tôn vinh Sơn Tinh hay tín ngưỡng thờ Thần Núi nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên của người Việt cổ. Sơn Tinh và Thủy Tinh mang ý nghĩa như Đất và Nước, Âm và Dương vừa hoà hợp vừa xung khắc nhau vốn đã quen thuộc trong cách nghĩ của con người thời cổ.

- Lớp văn hóa Đạo giáo: lớp thứ hai là bước ngoặt của huyền thoại: Sơn Tinh trở thành Thần sư, thụ phép thần tiên - phản ánh sự tiếp xúc và hoà trộn giữa tín ngưỡng dân gian buổi đầu với những luồng tư tưởng mới mà tư tưởng Đạo giáo tỏ ra có ưu thế trong việc xâm thực vào tâm thức của dân gian.

- Lớp văn hóa Nho giáo - lớp muộn nhất của huyền thoại Sơn Tinh Đức Thánh Tản. Lớp ý nghĩa này gắn liền với quá trình lịch sử hóa, Nho giáo hóa hình tượng Đức Thánh Tản. Quá trình lịch sử hóa, Nho giáo hóa của hình tượng cũng đồng thời là quá trình văn bản hóa các truyền thuyết về Sơn Tinh Đức Thánh Tản.

1.3.1.1. Lớp văn hóa tín ngưỡng Việt - Mường

Nghiên cứu của nhiều tác giả đều thống nhất về yếu tố văn hóa Mường trong hình tượng Đức Thánh Tản. Ca dao cổ có câu: “Nhất cao là núi Ba Vì/Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Nếu xét về phương diện địa lý tự nhiên thì Ba Vì không phải là núi cao nhất bởi đỉnh anxipan cao 3143m, đỉnh Putaleng cao 3049m, đỉnh Pushilung cao 3072m nhưng trong tâm thức của người Việt, Ba Vì luôn được coi là núi tổ, núi cao nhất vì gắn liền với hình tượng Đức Thánh Tản - thần Tản Viên từ lâu được coi là đệ nhất phúc thần nước Nam, luôn được nhắc đến vừa thiêng liêng vừa gần gũi với nhân dân trong một niềm tự hào đặc biệt. Tác giả Trần Quốc Vượng khẳng định: “dải đất nằm trải dọc dưới chân núi Tản Viên là không gian văn hóa Việt Mường cổ” [137, tr.1 ]. Tác giả Lâm Bá Nam trong bài viết “Hình tượng Tản Viên trong đời sống văn hóa của người Mường” cũng khẳng định về hình tượng Tản Viên trong văn hóa Mường không chỉ có nhiều nét tương đồng với


thần núi của nguời Việt mà còn ẩn chứa sau đó lớp nghĩa anh hùng văn hóa gần gũi với con người, song hành với vận mệnh của cả dân tộc, với nếp suy nghĩ, nếp sinh hoạt của từng cá nhân và gia đình. Tác giả đưa ra kết luận “Tản Viên ngoài được thờ cúng chung trong các nghi lễ của cộng đồng bản Mường vị thần này được thờ cúng trong từng gia đình như một vị thần bảo hộ mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc” [73, tr.47].

Lịch sử tộc người cho thấy người Mường có quan hệ rất gần với người Kinh. Các nhà dân tộc học ngôn ngữ đưa ra thuyết cho rằng người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt - Mường cổ. Vào thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi ít bị Hán hóa, bảo tồn lối sống cổ đến nay là người Mường. Bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn với người phương Bắc về văn hóa, ngôn ngữ và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình chia tách Mường - Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra bắt đầu từ thế kỷ VII, VIII và kết thúc vào thế kỷ XII, thời Nhà Lý. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định Ba Vì đã trở thành cái nôi của người Việt cổ, gốc đầu tiên của nhóm Việt - Mường, rồi mới có sự phân hóa về địa lý để trở thành người Kinh (người Việt) và người Mường.

Người Việt - Mường cổ cư trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc, như nhiều tộc người khác thì tín ngưỡng giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần cũng như sinh hoạt, lao động của họ. Họ có rất nhiều tín ngưỡng thờ phụng. Đối diện cuộc sống nơi núi cao hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, họ càng cần nhiều hơn niềm tin tâm linh, làm chỗ dựa để vượt qua những khó khăn. Trong số đó, phải kể đến các tín ngưỡng độc đáo của dân tộc Mường đó là “vạn vật hữu linh”. Đối với họ, mỗi viên đá, cái cây hay động vật đều có linh hồn, trợ giúp cho con người mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, gia đình khoẻ mạnh và hạnh phúc. Trong xã hội nguyên thủy, đứng trước hiện tượng tự nhiên như mưa bão, lũ lụt, hạn hán, người Việt - Mường cố gắng tìm lý do để lý giải hiện tượng và cách bảo vệ bản thân và cộng đồng. Chính vì vậy, theo góc nhìn của họ thì lũ lụt không đơn thuần là thiên tai mà ẩn sâu trong đó là câu chuyện về sự tranh đấu các vị thần, một vị thần nơi dải Đà giang hung dữ tung bọt trắng xóa và một vị thần trị vì đỉnh Tản uy nghi giữa trời. Căn cứ vào ngọc phả là huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh và thần tích Sơn Tinh - Thủy Tinh tại Đền Và, họ vốn là “sư hữu” (vừa là thầy, vừa là bạn) của nhau, cũng là “đồng môn”. Tình cảm của hai người tốt đ p cho đến khi họ cạnh tranh nhau để lấy được công chúa Ngọc Hoa. Các lễ vật mà vua Hùng đưa ra “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” đều từ núi rừng đã cho thấy sự ưu ái của vua dành cho Sơn Tinh và đó chính là sự phản ánh đầu tiên về vị trí của thần núi trong tâm thức của người Việt. Câu chuyện thứ hai là việc nhường ngôi cho An Dương Vương. Để tránh một cuộc binh đao tàn hại sinh linh có thể xảy ra khi tranh giành ngôi báu, Đức Thánh Tản (khi đó đã là con rể vua Hùng) đã khuyên vua Hùng nhường ngôi cho An Dương Vương (khi đó là vị tướng tài ba và nắm quyền lực quân sự trong tay).


Như vậy, việc tôn vinh Sơn Tinh hay tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”, “thần Núi” nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên của người Việt Mường cổ. Nó thể hiện triết lý Âm - Dương, vừa xung khắc vừa hòa hợp nhưng luôn tồn tại song hành trong mọi sự vật, hiện tượng. Cuộc chiến dai dẳng giữa Sơn Tinh với Thủy Tinh phản ánh công cuộc trị thủy bền bỉ đầy khó khăn thử thách nhưng cũng vô cùng dũng cảm, can trường của những người Việt - Mường đầu tiên chống lại thế lực tự nhiên hung dữ. Việc Đức Thánh Tản cùng bố vợ và vợ về vùng Ba Vì chính là chính là sự chuyển di về mặt dân cư từ trung du miền núi xuống đồng bằng, thể hiện một thái độ dám đương đầu với thiên nhiên và những thành công trong công cuộc trị thủy của cư dân Việt - Mường. Lớp tín ngưỡng này cho thấy những nét sơ khai, phủ lên hình tượng Đức Thánh Tản lớp văn hóa Việt - Mường cổ, tạo cơ sở cho sự phát triển hình tượng này tiếp theo.

1.3.1.2. Lớp văn hóa Đạo giáo

Đạo giáo vốn xuất phát từ Trung Quốc theo chân các quan cai trị, các học giả và đặc biệt là các đạo sĩ đi lánh nạn rồi truyền vào Việt Nam theo hai giáo phái: thần tiên và phù thủy. Ngay khi vào nước ta, Đạo giáo nhanh chóng tìm được chỗ dựa vững chắc, kết hợp với các lớp tôn giáo tín nguỡng bản địa để xây dựng các hình tượng vị thần tiên với những quyền năng phi thường. Qua những câu chuyện về sự hóa thân thần kỳ của Đức Thánh Tản trong các truyền thuyết cho thấy được Đức Thánh Tản mang hình tượng của một vị thần Đạo giáo. Những câu chuyện về việc Đức Thánh Tản được các vị thần linh giúp đỡ đều có dấu vết ảnh hưởng của Đạo giáo rất rò rệt. Không những vậy, yếu tố Đức Thánh Tản hóa sinh bất tử thể hiện tư tưởng “thoát tục lên tiên” trong Đạo giáo, bởi sau khi nhường ngôi cho An Dương Vương, Tản Viên cùng với bố vợ là Hùng Duệ Vương và vợ là công chúa Mị Nương đã đi vào còi hóa sinh bất diệt đúng với ý nguyện hưởng nhàn và thanh thoát của các vị.

Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Xuân Diện [24] có nói đến yếu tố hỗn dung văn hóa của người Việt và người Dao tại vùng núi Ba Vì. Theo thần tích tại Đền Và thì sau khi về vùng núi Ba Vì cai quản, Sơn Tinh chọn Đền Và là Đông Cung - một trong bốn cung lớn để vi hành thưởng ngoạn cảnh đ p cũng như truyền nghề cho dân chúng, rồi tại đây Tản Viên cũng hóa về trời. Chính vì vậy, vùng núi Ba Vì (đặc trưng nhất là đền Trung) là địa điểm xảy ra sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa ba dân tộc Việt, Mường, Dao anh em. Tác giả Nguyễn Xuân Diện cho rằng “Người Dao đã đem tới vùng núi Ba Vì những vị thần của mình, và trong số hàng trăm vị thần ấy, thần Thái Bạch Kim Tinh đã hội nhập vào thần điện đền Trung và trở thành vị thần chung của cả ba dân tộc Việt - Mường - Dao ở vùng non Tản” [24, tr.56].

Việc một vị thần trong tín ngưỡng người Việt khoác thêm lớp văn hóa Đạo giáo không phải là hiện tượng kỳ lạ. Trần Hưng Đạo vốn là một vị anh hùng có tên tuổi, quê quán và lai lịch rò ràng, đã lập được chiến công lừng lẫy năm châu bốn bể qua ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông và khi lui về ở ẩn tại Chí Linh, Hải Dương thì ông lại trở thành


một vị thầy thuốc, một vị thần chữa bệnh, trừ tà cho người dân và sau khi ông mất thì trở thành Đức Thánh trong Tam phủ Tứ phủ, chỉ sau Mẫu. Như vậy, Đức Thánh Tản là một vị thần mang trong mình những yếu tố của Đạo giáo là một cách tư duy và nâng cao hình tượng thánh thần trong niềm tin tín ngưỡng của người dân bao đời nay. Chính nhờ yếu tồ này mà hình tượng Đức Thánh Tản trở nên linh thiêng, quyền uy hơn với những phép thuật trong tay. Điều đó làm cho người dân trở nên kính phục và tin tưởng vào sức mạnh phi thường của Đức Thánh Tản.

1.3.1.3. Lớp tín ngưỡng nhiên thần

Qua các truyền thuyết, hình tượng Đức Thánh Tản hiện lên mang tầm vóc của một vị thần núi, mà cụ thể là thần núi Ba Vì. Nguồn gốc nhiên thần là nguồn gốc tín ngưỡng sâu xa và cũng là đầu tiên của Đức Thánh Tản. Có thể nói, lớp tín ngưỡng thờ thần Núi tự nhiên Sơn Tinh là lớp tín ngưỡng đầu tiên của hình tượng Đức Thánh Tản. Như đã phân tích ở trên, người Việt - Mường cổ vốn tồn tại lớp tín ngưỡng thờ Nhiên thần, chính vì vậy, lớp văn hóa sâu xa của hình tượng Sơn Tinh vốn là tín ngưỡng thần Núi tự nhiên, bắt nguồn từ thời kỳ Việt - Mường chung. Những nghiên cứu của tác giả Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh đều thống nhất với nhau về lớp tín ngưỡng này. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh [108, tr.98-99], Tản Viên là Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần mà cụ thể là Sơn thần. Trong hệ thống Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần thì Sơn thần chiếm số lượng rất lớn. Điều này cũng dễ hiểu vì trong vũ trụ luận nguyên sơ phương Đông, Sơn - Thủy, Đất - Nước là cặp đối lập, tương khắc tương sinh tạo nên môi trường sống quen thuộc và cảnh quan của các cư dân nông nghiệp. Con người sống phải nhờ vào đất và nước, dưới sự phù hộ độ trì của các thần linh Sơn - Thủy này. Trong các Sơn thần thì hơn cả là thần Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh gắn bó chặt chẽ với Tản Viên. Có nơi, dân gian quan niệm hai vị trên là con của Tản Viên hay họ là anh em ruột trong số 50 người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Diện phân bố thờ cúng các Thành hoàng là Sơn thần rất rộng, ở hầu khắp mọi nơi, tuy nhiên tập trung hơn cả là ở Hà Tây, Nhất là Sơn Tây vùng ven Ba Vì (núi Tản Viên). Theo tác giả Đinh Gia Khánh, “Sơn Tinh vốn là sản phẩm của việc thờ núi. Lúc đầu thì người ta thờ bản thân quả núi Tản Viên, về sau tiến thêm một bước người ta quan niệm có một vị thần tách biệt với quả núi và ngự trị trên quả núi ấy. Vị thần ấy dần dần mang hình dáng người. Đến thời kỳ Văn Lang, trên cơ sở một nguyên mẫu lịch sử nào đó, xuất hiện ở quanh vùng núi Tản Viên một vị thần có công giúp vua Hùng chống lại nhiều nạn ngoại xâm” [53, tr.281]. Theo như truyền thuyết, sau khi Đức Thánh Tản khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán, Ngài cùng Ngọc Hoa lui về sinh sống ở vùng núi Ba Vì. Đây là một ngọn núi tổ của nước Việt, gắn liền với đời sống của nhân dân. Sự thực núi Ba Vì không phải cao nhất về mặt tự nhiên nhưng đây là nơi ngự của thần Núi (Sơn Tinh) nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao. Truyền thuyết có kể lại rằng núi Ba Vì do Sơn Tinh (Đức Thánh Tản) dùng sách ước nâng núi


lên cao để ngăn nước lũ chống lại Thủy Tinh. Và như vậy, Sơn Tinh là sản phẩm của việc thờ thần Núi tự nhiên và sau này được người dân hình tượng hóa trở nên có dáng dấp của một người thường và trong tâm thức của người dân khu vực Sơn Tây từ lâu đã coi Đức Thánh Tản là một vị thần núi linh thiêng luôn bảo trợ cho cuộc sống của họ.

1.3.1.4. Lớp tín ngưỡng Bách nghệ tổ sư và Tổ nghề

Theo nghĩa đen, Bách nghệ tổ sư là “vị tôn sư thần tổ của hàng trăm nghề” [107, tr.3 4]. Trong cảnh quan tín ngưỡng của người Việt, nghề ở đây không chỉ là nghề thủ công mà còn nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp hay thương mại… Có nhiều vị trong bách nghệ tổ sư là những con người thực xuất thân từ một làng quê, do điều kiện nào đó mà nắm được vững vàng những tri thức, những kỹ thuật về một nghề thủ công để đem phổ biến lại cho dân chúng, họ hàng đồng hương của họ. Cũng có những vị tổ nghề được tôn vinh theo cảm quan huyền thoại, họ không phải là những con người bằng xương bằng thịt mà là thần linh thực sự của thế giới siêu trần, đã chủ trì cho cơ nghiệp như thần Sông, thần Biển. Cũng có những nhà văn hóa được tôn vinh, họ bằng xương bằng thịt, có lịch sử, lai lịch và nguồn gốc xuất thân rò ràng như Hồ Nguyên Trừng chế ra súng thần công (thế kỷ XIV) hay Lương Thế Vinh viết sách về toán học (thế kỷ XV). Về trường hợp của Đức Thánh Tản, Ngài là vị tổ nghề trong phạm vi truyền thuyết. Tuy nhiên, có một điều khác biệt giữa Ngài với các vị tổ nghề khác. Có nhiều nhân vật huyền thoại trong kho truyền thuyết dân gian đã được quần chúng xem là những vị sáng tạo hoặc mở đầu cho một ngành nghề nào đó nhưng lại không xem là một bách nghệ tổ sư. Vì thế, chúng ta không thấy có những hình thức lễ nghi cúng bái đối với họ nhưng trong kho tàng truyền thuyết họ được biết đến như một sáng chế hay một nhà kỹ thuật bậc thầy. Ở miền núi, các dân tộc cũng có truyền thuyết về các vị thần nhưng không tiến hành thờ cúng và cũng không xem là một vị tổ nghề như thần chế ra rượu Yang Rim (Ê Đê) hay thần Lang Khấm Dậm (Mường)… Tổ sư của nghề dù mang tính chất huyền thoại vẫn phải là con người ở nơi trần giới chứ không phải là còi siêu trần. Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt là một vị thần trong thần thoại (hay truyền thuyết) lại được tôn vinh là vị thánh đứng đầu bách nghệ tổ sư đó là Đức Thánh Tản. Thông qua các truyền thuyết kể lại, ta có thể thấy được Đức Thánh Tản là một vị thần với sức mạnh phi thường, Ngài là đại diện cho nông nghiệp, cho ngư nghiệp và còn được mệnh danh là ông tổ trăm nghề. Đối với những nước làm nông nghiệp như Việt Nam, người dân quanh năm phải chống chọi với thiên tai, địch họa nhất là chống chọi với lũ lụt đó là một mối đe dọa lớn đối với người dân họ luôn phải “sống chung với lũ” thì sự xuất hiện của Sơn Tinh - Đức Thánh Tản giống như một chỗ tựa vững chắc tăng thêm niềm tin, sức mạnh cho người dân chiến đấu chống lại với các cơn lũ phá hủy mùa màng. Điều đó được thể hiện rò nhất qua cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Không những vậy, Đức Thánh Tản còn là người dạy cô gái bên Ngự Dội dùng kiếm


sắt cưa răng làm liềm cắt cỏ cho nhanh, cách lấy mây tre đan làm quang sọt, đòn gánh để dọn cỏ. Điều này được thể hiện rò qua sự tích Đức Thánh Tản đi dạo chơi từ Đền Và sang bên kia sông Hồng. Làm nông nghiệp không chỉ có trồng lúa nước mà người dân Việt Nam còn làm ngư nghiệp đánh bắt cá trên các con sông suối, ao hồ... Qua câu chuyện Đức Thánh Tản dạy dân đánh bắt cá trên sông Tích đã thể hiện được một vai trò nữa của Ngài trong công cuộc dạy dân làm nghề. Tục đánh cá thờ ở Đền Và được giải thích bằng việc Đức Thánh Tản đã giúp ông già kéo vó ở một chiếc cầu nhỏ bắc qua sông Tích Giang. Chính vì thế, phụng thờ Đức Thánh Tản cũng chính là tôn thờ một “ông tổ trăm nghề”.

1.3.1.5. Lớp tín ngưỡng Thành hoàng làng

Thờ cúng Thành hoàng làng là một tín ngưỡng rất phổ biến ở các làng xã người Việt. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh, “Thành hoàng là một tên gọi gốc Hán, “thành” là cái thành còn “hoàng” là cái hào sâu bao quanh thành, tức vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành trì của Trung Quốc” [108, tr.91]. Xuất phát lớp ý nghĩa như vậy, trong văn hóa làng xã của người Việt, Thành hoàng cũng chính là vị thần che chở, bảo vệ cho người dân trong làng. Diện mạo Thành hoàng làng ở đồng bằng Bắc Bộ có ba nguồn gốc từ: 1/ Thiên thần (thần từ trên trời hoặc là con của trời); 2/ Nhiên thần (thần có nguồn gốc tự nhiên) và 3/ Nhân thần (thần có xuất thân con người). Xét theo nội dung đã phân tích tại mục 1.3.1.1 và 1.3.1.3, luận án kết luận rằng Đức Thánh Tản được coi là vị thành hoàng làng xuất thân hỗn dung từ hai nguồn gốc Nhiên thần và Nhân thần. Thông thường, một vị thành hoàng làng thường có một nguồn gốc, hoặc là Nhiên thần hoặc Nhân thần. Nhưng với niềm tin, niềm yêu mến và sự tôn kính sâu sắc, người dân đã vẽ nên hình hài của Ngài từ hai nguồn gốc: Nhiên thần - Thần Núi với sức mạnh phi thường bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi và Nhân thần - vị “bách nghệ tổ sư” dạy dân trăm nghề, rất gần gũi và gắn bó với đời sống người lao động.

Thông qua thành hoàng làng có thể thấy được thiên nhiên Việt Nam - thiên nhiên lấy núi - nước (sơn - thủy) làm môi trường chính. Xu hướng biến đổi và vận động của các thành hoàng làng người Việt là lịch sử hóa và địa phương hóa. Đức Thánh Tản vốn là nhiên thần đã trở thành nhân vật lịch sử. Điều này cho thấy, người Việt không chỉ lịch sử hóa bản thân mình mà còn lịch sử hóa cả chính môi trường tự nhiên mà mình đang sống. Một ngọn núi, con sông, một vùng đất… đều có thể hóa thân thành nhân vật sự kiện lịch sử, rồi các thần linh không chỉ của chung cả đất nước, dân tộc mà dễ dàng được dân gian “địa phương hóa” thành của làng xã, quê hương mình. Thành hoàng làng Đức Thánh Tản phân bố theo trục không gian và thời gian, gắn với điều kiện tự nhiên và lịch sử của địa phương, cụ thể là thời Hùng Vương - An Dương Vương, tập trung ở địa bàn Bắc Ninh, Phú Thọ và Hà Tây cũ ngày nay. Chính vì thế, trong tâm thức của người dân, Đức Thánh Tản là một vị thần vừa có sự uy nghi, sức mạnh toàn năng lại vừa gắn bó với

Xem tất cả 215 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí