trong phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả thì nhà nước cần tạo điều kiện cho thị trường phát triển và làm cho thị trường thực hiện chức năng của mình một cách tốt nhất. Do vậy, nhà nước cần có chính sách bảo đảm quyền sở hữu của các chủ thể kinh doanh, thúc đẩy tự do hoá kinh tế, xác định vai trò pháp lý của các chủ thể tham gia thị trường, điều chỉnh chính sách tỷ giá, các chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách tạo lập và phát triển các loại thị trường... Đây là những biện pháp cần thiết nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường phát huy vai trò của mình trong việc huy động và phân bổ sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả.
b. Về chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế gắn với phát huy lợi thế so sánh
Trong số các mục tiêu của CNH, HĐH thì mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đóng vai trò rất quan trọng. Thực tế, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế chính là sự thay đổi tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đã định, trước hết, nhà nước cần xác định những ngành, lĩnh vực ưu tiên, những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh, đóng vai trò là đầu tàu cho sự tăng trưởng kinh tế. Để gia tăng tỷ trọng của những ngành, lĩnh vực đóng vai trò trọng yếu trong từng thời kỳ phát triển, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi để hướng các nguồn lực vào phát triển các ngành, lĩnh vực này thông qua việc kết hợp các công cụ chính sách nhằm kích thích đầu tư như giảm thuế, giấy phép nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, hướng các nguồn tín dụng cả ngắn hạn và dài hạn vào các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành mũi nhọn với lãi suất ưu đãi… Thậm chí nhà nước có thể dành một phần ngân sách đáng kể trực tiếp đầu tư phát triển những ngành này khi khu vực tư nhân chưa có đủ khả năng.
c. Về chính sách huy động vốn cho CNH, HĐH
Vốn là một trong những nguồn lực hàng đầu đối với mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nguồn vốn cho đầu tư phát triển phụ thuộc rất lớn vào
các chính sách của nhà nước. Với nhiều nước đang phát triển tiến hành CNH, HĐH khi khả năng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế thấp, nguồn vốn của khu vực tư nhân cho đầu tư phát triển thường bị hạn chế thì nếu nhà nước có những chính sách huy động, quản lý và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý, có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy CNH, HĐH. Nghĩa là nhà nước ở các nước này cần phải có chiến lược tạo vốn và có những chính sách phù hợp để huy động vốn.
Khi đề cập đến vấn đề vốn cho đầu tư phát triển, các nhà kinh tế học đã gợi ý những giải pháp huy động vốn. J.M.Keynes lập luận rằng việc giảm chi phí sản xuất sẽ dẫn đến giảm giá hàng hoá và dịch vụ, làm cho giá trị thực tế của tiền lương trong dân cư tăng lên và do tâm lý tiết kiệm nên số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ tăng lên khiến cho số tiền mà họ muốn cho vay cũng tăng nhanh và điều đó sẽ dẫn đến nhu cầu hình thành thị trường cho vay với lãi suất có lợi cho nhà đầu tư. Thị trường vốn càng mở rộng thì khả năng đầu tư mới càng lớn. Từ đó ông cho rằng biện pháp đầu tiên là phải tác động trực tiếp vào khâu lãi suất hoặc khối lượng tiền trong nước. Lý luận của Keynes tạo cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng thông qua công cụ gián tiếp là lãi suất. Trong khi đó, một số nhà kinh tế học khác cho rằng việc huy động vốn trong nước ở các nước đang phát triển rất khó khăn bởi khả năng tiết kiệm ở các nước này là ít ỏi do thu nhập thực tế thấp. Mức thu nhập thực tế thấp phản ánh năng suất lao động thấp và năng suất lao động thấp phần lớn là do tình trạng thiếu vốn gây ra. Thiếu vốn lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít và vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói được khép kín. Do vậy, để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó các nước đang phát triển cần phải có “cú huých” từ bên ngoài. Việc mở cửa để thu hút FDI là giải pháp cứu cánh đối với các nước này; nguồn vốn vay và vốn viện trợ cũng là những nguồn lực quan trọng mà các nước đang phát triển cần phải khai thác. Tuy nhiên, họ cũng khuyến cáo nguồn vay và tài trợ quốc tế chỉ nên sử dụng trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá với tư cách là đòn bẩy tạo xung lực cho quá trình phát triển công nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 4
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 5
- Nhà Nước Xác Định Và Điều Chỉnh Chiến Lược Cnh, Hđh
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 8
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 9
- Các Chính Sách, Giải Pháp Trong Cnh, Hđh
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
Nhìn chung, các lý thuyết trên có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong việc ban hành chính sách huy động vốn cho CNH, HĐH. Một số nước, điển hình là NIEs đã thành công trong huy động vốn cả trong nước và nước ngoài để gia tăng đầu tư, mở rộng quy mô và tăng cường ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ để phát triển sản xuất theo chiều sâu. Kết quả là xuất khẩu và tổng sản phẩm trong nước đạt tốc độ tăng cao. Đây lại chính là yếu tố vô cùng quan trọng để tăng tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế cho mở rộng đầu tư phát triển.
Với xuất phát điểm là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên hầu hết các nước đang phát triển đều phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Do vậy, để tiến hành CNH, HĐH, chính sách của nhà nước cần hướng vào mục tiêu khuyến khích tiết kiệm và gia tăng đầu tư trong nước. Bên cạnh việc huy động nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn tín dụng qua hệ thống các trung gian tài chính thì các chính sách các chính sách khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư tư nhân từ phía nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến hướng vận động của dòng vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Những ngành, lĩnh vực được khuyến khích sẽ có điều kiện phát triển nhanh, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Và chính sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao sẽ giúp phá vỡ được “vòng luẩn quẩn” và tạo ra động lực cho sự tăng trưởng tiếp theo với cơ chế: tăng trưởng cao - tiết kiệm cao - đầu tư cao và có hiệu quả
- năng suất lao động cao - tăng trưởng cao.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, dòng vốn đầu tư quốc tế đang gia tăng với tốc độ nhanh và quy mô lớn đã mở ra cơ hội lớn cho các nền kinh tế đang phát triển có thể tiếp cận, khai thác để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Dòng vốn đầu tư từ nước ngoài với các kênh FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, cho vay thương mại... có thể được coi là một trong những động lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Do vậy, nhà nước cần phải có chính sách tạo môi trường thuận lợi để khơi thông dòng chảy vốn đầu tư từ bên ngoài cho CNH, HĐH.
d. Về chính sách phát triển khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ có vai trò quan trọng đặc biệt trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Thực tế, xu thế phát triển của khoa học - công nghệ tạo ra những cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển đi sau trong CNH, HĐH. Vấn đề đặt ra với các nước này là làm thế nào để có thể nắm bắt và sử dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ để cải tạo, nâng cấp và hiện đại hoá nền kinh tế.
Thời gian gần đây đã xuất hiện xu thế các nước tiên tiến có nhu cầu loại bỏ công nghệ đã trở nên lạc hậu thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ mà những công nghệ đó lại là mới đối với những nước đi sau trong công nghiệp hoá. Chính điều đó đã tạo thời cơ và điều kiện để các nước đang phát triển có thể lựa chọn, tiếp thu nhằm từng bước nâng cấp trình độ công nghệ của mình. Tuy nhiên, khi khả năng tự phát triển công nghệ trong nước còn nhiều hạn chế thì khả năng hấp thụ, khai thác công nghệ từ bên ngoài cũng bị hạn chế. Điều đó có thể dẫn đến sự lệ thuộc vào công nghệ bên ngoài và tình trạng tụt hậu về công nghệ. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, ngay trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, các nước đang phát triển cần phải nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ, đồng thời phải đẩy mạnh hoạt động R&D. Sự phối hợp liên hoàn, chặt chẽ giữa nghiên cứu - triển khai và ứng dụng công nghệ trong sản xuất là cách thức để nâng cấp trình độ công nghệ một cách hiệu quả. Do vậy, vấn đề đặt ra là các nước đi sau phải có năng lực lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và cuối cùng là làm chủ các công nghệ sẵn có để tiết kiệm được thời gian, tiết kiệm được chi phí cho nghiên cứu, phát minh. Nghĩa là các nước đi sau trong công nghiệp hoá cần phải tạo ra một nền tảng công nghệ cần thiết để có thể tiếp thu và làm chủ công nghệ hiện đại, đồng thời phải tạo năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ để có thể
tự sáng tạo công nghệ mới, giảm bớt tình trạng phụ thuộc vào công nghệ du nhập và tiến kịp các nước phát triển đi trước về trình độ khoa học - công nghệ.
Như vậy, các nước đang phát triển trong CNH, HĐH cần phải có chính sách phát triển khoa học - công nghệ phù hợp để tạo khả năng tiếp thu những thành tựu cách mạng khoa học - công nghệ của những nước đi trước và nâng cao được năng lực khoa học - công nghệ quốc gia nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH, tránh tụt hậu trong phát triển. Điều đó có nghĩa là các nước đang phát triển cần xác định một hệ thống các mục tiêu và biện pháp nhằm phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Các mục tiêu của chính sách khoa học và công nghệ là “thúc đẩy” và “định hướng”. Cụ thể: i) Thiết lập các tổ chức để tích luỹ kiến thức và kỹ năng công nghệ; ii) Cải thiện cơ cấu hạ tầng công nghệ; iii) Thúc đẩy đổi mới khoa học và công nghệ; iv) Hỗ trợ các đề tài nghiên cứu có tính chiến lược cơ bản đã được lựa chọn làm nền móng cho các công nghệ mới trong tương lai; và v) Xây dựng điều kiện để phát triển các công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đóng vai trò chính trong việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, do vậy nhà nước phải thực sự coi khoa học - công nghệ là động lực của sự phát triển, có những giải pháp cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ và quan trọng hơn là cần có cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới. Về cơ bản, chính sách khoa học - công nghệ có thể được xây dựng theo ba cấp: cấp định hướng chiến lược, cấp lập kế hoạch và cấp thực hiện. Ở cấp thứ nhất, nhà nước cần tập trung các cố vấn chính trị cao cấp, các chuyên gia hàng đầu để xác định chiến lược, thứ tự ưu tiên phát triển công nghệ dựa trên chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Cấp thứ hai là các bộ ngành với chức năng hoạch định các chương trình khoa học - công nghệ được theo chỉ dẫn của cấp thứ nhất. Việc thực hiện các chương trình diễn ra ở cấp thứ ba, các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật ở các cơ sở R&D biến các chương trình thành hiện thực thông qua các đề tài khoa học. Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cụ
thể như: Tăng cường đầu tư cho khoa học - công nghệ; Kết hợp giữa nhà nước và tư nhân trong hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ; Khuyến khích và có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với những người hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ... Với nguồn nhân lực và tài chính còn hạn hẹp, một chính sách khoa học - công nghệ phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội quốc gia, các nước đang phát triển sẽ có cơ hội tăng trưởng nhanh chóng.
e. Về chính sách phát triển nguồn nhân lực
Trong các loại nguồn lực, thì nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là có hạn nhưng tài nguyên con người lại là vô hạn. Nguồn nhân lực được xem như một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất và là động lực quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Nguồn nhân lực ngày nay đã trở thành một khái niệm công cụ để điều hành thực thi chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong đó CNH, HĐH là một giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động, tức là nguồn lao động được chuẩn bị sẵn sàng tham gia vào quá trình lao động. Nguồn nhân lực ở đây được xem xét trên nhiều góc độ: quy mô, chất lượng và cơ cấu. Để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong điều kiện về khoa học - công nghệ cụ thể cần phải có một lực lượng lao động phù hợp. Quy mô nguồn nhân lực một mặt phụ thuộc vào quy mô dân số, mặt khác còn phụ thuộc vào độ cơ động của nguồn lao động, mức độ linh hoạt của thị trường, tình trạng phát triển của hệ thống giao thông. Chất lượng lao động thể hiện ở sức khỏe, phẩm chất đạo đức, ở trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất đối với những ngành, lĩnh vực đòi hỏi lao động qua đào tạo, trình độ tay nghề cao. Chất lượng nguồn nhân lực chính là sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo. Nhiều nhà kinh tế cho rằng đầu tư cho giáo dục là một trong những loại hình đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế
- xã hội lớn nhất, nó là loại đầu tư trực tiếp cho sản xuất chứ không đơn thuần là đầu tư cho lĩnh vực xã hội.
Từ công nghệ truyền thống tiến lên công nghệ hiện đại thì lợi thế thuộc về lực lượng lao động có kỹ năng phù hợp với yêu cầu của công nghệ hiện đại. Việc sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học - công nghệ để công nghiệp hoá và vươn tới những ngành công nghệ cao, hiện đại không thể tách rời việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Trình độ phát triển, khả năng tiếp nhận, sử dụng các công nghệ hiện đại của thế giới với mỗi quốc gia khi tiến hành công nghiệp hoá phụ thuộc trước hết vào nguồn nhân lực có trình độ, có chất lượng mà đó lại là kết quả trực tiếp của sự đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và lực lượng lao động lành nghề thích ứng với hiện đại hoá. Đây là yếu tố căn bản nhất, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá. Vì vậy, các nước muốn đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá phải tập trung đào tạo được đội ngũ trí thức, kỹ nghệ gia và lao động có tay nghề cao.
Thực tế cho thấy, một quốc gia có hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức năng chuẩn bị học vấn và nghề nghiệp cho người lao động thì sự gia tăng dân số, gia tăng nguồn nhân lực sẽ trở thành động lực đối với sự phát triển kinh tế. Ngược lại, với một hệ thống kinh tế và giáo dục yếu kém, sự gia tăng dân số nhanh chóng sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu việc làm, thiếu nhân lực được đào tạo, sự gia tăng các tệ nạn và sự mất ổn định xã hội. Trong xu thế cạnh tranh toàn cầu ngày càng quyết liệt hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực được đo bằng trình độ tri thức, kỹ năng sử dụng công nghệ cao và nó trở thành yếu tố chủ chốt của phát triển. Do vậy, đầu tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ đơn thuần là khoản đầu tư mang tính phúc lợi xã hội mà trực tiếp là đầu tư kinh tế. Thậm chí, nó còn được coi là khoản đầu tư quan trọng hàng đầu và mang lại hiệu quả cao nhất. Đây là một khả năng, một lợi thế tiềm tàng mà các nước đi sau có thể có được, nó có thể cho phép các nước đi sau nhanh chóng tiếp cận
công nghệ hiện đại ngay cả khi trình độ phát triển kinh tế chưa cao và có thể vượt qua một số nấc thang tuần tự trong phát triển.
Kinh nghiệm nhiều nước đã thành công trong CNH, HĐH đã khẳng định rằng, nhà nước cần phải có chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực, phải tăng cường đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo. Đồng thời, nhà nước cũng cần có chính sách nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của đất nước.
f. Về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Thực tế cho thấy, hoạt động xuất khẩu là phương tiện để đạt được sự phát triển tổng thể của cả nền kinh tế và luôn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH. Nguồn thu từ xuất khẩu tạo điều kiện gia tăng nguồn vốn tích luỹ và kết quả hoạt động xuất khẩu lại có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Ở nhiều nước, để thúc đẩy xuất khẩu nhà nước đã có những biện pháp linh hoạt, mềm dẻo trong lĩnh vực thuế, tín dụng và các hình thức trợ cấp khác. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, do khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế nên các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu rất cần đến sự bảo hộ, ưu đãi của nhà nước. Tuy nhiên, mức độ bảo hộ và ưu đãi của nhà nước sẽ tuỳ thuộc vào vai trò và vị trí của các ngành, ưu tiên hơn cho những ngành mới có triển vọng phát triển và sẽ trở thành ngành xuất khẩu có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Theo thời gian, mức độ bảo hộ của nhà nước sẽ phải giảm dần để buộc các ngành này phải phát triển để đứng vững trong một thị trường cạnh tranh. Việc mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài cũng là nhân tố cần thiết để mở mang sản xuất trong nước và tăng thêm khả năng xuất khẩu. Thực tế ở NIEs, ngoại thương đã trở thành lĩnh vực đầu tàu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Vì vậy, chính sách khuyến khích xuất khẩu thường gắn với việc đẩy nhanh tốc độ mở cửa nền kinh tế, gắn với việc khai thác và phát huy lợi thế so