Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 4


thu nhập và chính sách tỷ giá hối đoái; iii) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và cung ứng các dịch vụ công cộng như giáo dục và y tế; iv) Kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh tế; v) Nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hoá và dịch vụ [67, tr. 22-23].

Trong thực tế, lý thuyết của trường phái Keynes đã thống trị trong các lý thuyết kinh tế và trở thành cơ sở khoa học chủ đạo cho việc thiết kế và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước công nghiệp phát triển trong suốt thời gian từ sau chiến tranh thế giới II đến những năm 1970. Mặc dù các quan điểm của trường phái này bị phê phán kịch liệt do hậu quả từ những thất bại của các chính sách của chính phủ nhưng trong thực tế ở nhiều nước, một số đề nghị của Keynes như tăng chi tiêu ngân sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một trong những biện pháp được áp dụng cùng với các chính sách tiền tệ khác ở Nhật Bản, Trung Quốc trong thời gian gần đây.

- Trường phái Tân cổ điển đã kế thừa lý thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith và đưa ra cơ sở lý thuyết cho nền kinh tế thị trường tự do với tư cách là hình thức hiệu quả nhất trong hoạt động của con người. Các tác giả thuộc trường phái này đã dựa vào những bằng chứng thực tế để kịch liệt phê phán những đề nghị của Keynes về sự can thiệp quá mức của nhà nước. Từ đó, họ đề nghị nhà nước cần can thiệp càng ít càng tốt và chuyển giao hầu hết các chức năng cho thị trường. Thực tế, lý thuyết của trường phái Tân cổ điển và các đề nghị của họ nhìn chung được chấp nhận rộng rãi trong các nhà hoạch định chính sách ở các nước OECD, WB, IMF và nhiều tổ chức viện trợ song phương.

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra giới hạn nghiêm trọng của lý thuyết Tân cổ điển là lý thuyết này giả định rằng chi phí giao dịch bằng không, có nghĩa là không tồn tại chi phí giao dịch trên thị trường. Một giới hạn nữa của lý thuyết này là bản chất tĩnh và tương đối tĩnh trong lập luận chính và tính “phi thể chế” trong mô hình phát triển của lý thuyết này [71, tr. 23-24].


Trong thực tế, Lý thuyết về chi phí giao dịch (của Ronald Coase và Douglass North) và Lý thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế (hay còn gọi là lý thuyết tân Schumpeter về phát triển kinh tế) – hai trường phái có tính chất nhất quán với lý thuyết kinh tế học Tân cổ điển – đã giúp khắc phục phần lớn những giới hạn của lý thuyết Tân cổ điển. Lý thuyết chi phí giao dịch khẳng định rằng luôn tồn tại chi phí thực hiện các trao đổi hay trao đổi tự nguyện trên thị trường, do đó tồn tại chi phí của việc sử dụng thị trường. Chi phí giao dịch bao gồm tất cả các chi phí cho những hoạt động phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi như xác định và bảo vệ quyền lợi của người bán và người mua, thu thập thông tin về giá cả, về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được trao đổi, dự thảo và đàm phán hợp đồng, đăng ký bảo hiểm, giám sát việc thực hiện hợp đồng, tiến hành thanh tra để đánh giá chất lượng của sản phẩm, giải quyết các tranh chấp, quy định hình phạt đối với các hành vi vi phạm hợp đồng v.v… Trên thực tế, các chi phí giao dịch liên quan đến tất cả các lĩnh vực như kế toán, thương mại, tín dụng, ngân hàng, thị trường vốn, bảo hiểm, lập pháp, toà án, công tác thực thi luật và các hoạt động có liên quan khác trong chính phủ [71, tr. 58]. Lý thuyết chi phí giao dịch đã cung cấp cách nhìn mới trong việc tìm hiểu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước: xu hướng một số nền kinh tế phát triển sau dựa vào nhà nước trong phát triển kinh tế có thể được lý giải bằng cách kết hợp hai nhân tố: chi phí sử dụng thị trường và lợi thế thông tin của các nền kinh tế phát triển sau. Mô hình phát triển dựa vào nhà nước nổi lên trước hết là do việc sử dụng chính phủ như là công cụ điều phối với giá rẻ hơn sử dụng thị trường. Ở các nước đang phát triển đi sau, nhà nước trở thành công cụ mạnh trong điều tiết quá trình sản xuất trong nước. Các nền kinh tế phát triển sau có thể nghiên cứu các mô hình phát triển công nghiệp của các nền kinh tế đi trước để áp dụng vào quá trình sản xuất ở nước mình – đó chính là lợi thế thông tin. Chính phủ của một nền kinh tế đang phát triển đi sau có lợi thế hơn trong việc chuyển đổi thông tin kinh tế thành những mục tiêu phát triển rõ ràng, trong điều tiết phân bổ nguồn vốn giữa


các thành phần kinh tế trong nước và tập trung những nguồn lực xã hội có hạn để đầu tư vào những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao [71, tr. 290]. Lý thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế đã khắc phục được bản chất tĩnh của kinh tế học Tân cổ điển. Giống như trường phái Tân cổ điển, trường phái này công nhận sự thay đổi về công nghệ như là động lực chính tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng đã nghiên cứu sâu hơn cơ chế của sự thay đổi về công nghệ bằng cách đặt những đổi mới công nghệ và cơ chế phổ biến công nghệ ở vị trí trung tâm. Lý thuyết này khái quát sự phát triển kinh tế của thế giới như một quá trình năng động, tiến triển liên tục từ mô hình kinh tế – công nghệ cũ sang mô hình mới, được thúc đẩy bởi cả quá trình đổi mới cơ bản – tạo ra động lực chính và đổi mới tiệm tiến

– giúp phát tán đổi mới cơ bản đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trường phái này còn phân tích sự tương tác giữa các thể chế và sự thay đổi công nghệ. Thực tế, lý thuyết này có thể được sử dụng để luận giải việc các nước đang phát triển đi sau có thể thu được lợi hay nâng cao được năng suất nhờ quá trình truyền bá công nghệ bằng cách dựa vào nhà nước như một công cụ điều tiết [71, tr. 31]. Vai trò lãnh đạo của nhà nước còn cho phép các nền kinh tế đang phát triển đi sau tận dụng tốt hơn quá trình truyền bá mô hình kinh tế – công nghệ từ những nền kinh tế đi trước. Do việc ứng dụng trực tiếp công nghệ tiên tiến và áp dụng các mô hình chuyên môn hoá có thể tạo ra “gia tăng năng động” về sản lượng nên các nền kinh tế phát triển sau có thể tiến những bước dài hơn trong quá trình hiện đại hoá so với các nền kinh tế khác không thực hiện được điều này vì thiếu các thể chế nhà nước có thể thực hiện được chiến lược phát triển “từ trên xuống” hoặc thiếu sự nhất trí tập thể trong việc sử dụng nhà nước như một công cụ phát triển thực sự [71, tr. 290].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

- Đại diện tiêu biểu của Trường phái chính hiện đại là nhà kinh tế học Samuelson đã đưa ra mô hình kinh tế hỗn hợp và cho rằng cần có sự kết hợp giữa nhà nước và thị trường trong điều tiết kinh tế. Theo ông, nhà nước có những chức năng quan trọng sau: nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; hoàn thiện quá


Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 4

trình phân phối tổng hợp thu nhập quốc dân; sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế; đề xuất và thực hiện các chính sách kinh tế đối ngoại hay chính sách kinh tế quốc tế của một quốc gia. Để thực hiện các chức năng đó, nhà nước có thể áp dụng các chính sách và biện pháp nhằm sửa chữa các khuyết tật của thị trường như bảo đảm những cân đối chung trong nền kinh tế; điều chỉnh hoặc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm; cân đối các khoản thu, chi tài chính và ngân sách; tái phân phối các nguồn thu nhập trong xã hội để thực hiện sự công bằng xã hội...

Nói một cách khái quát, trong kinh tế học, lập luận quan trọng nhất ủng hộ việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là “sự thất bại của thị trường”. Chính phủ phải can thiệp vào một số lĩnh vực khi thị trường hoạt động không tốt. Lập luận trên thường được sử dụng để lý giải việc nhà nước can thiệp vào các hoạt động kinh tế ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó nhà nước chỉ đóng vai trò bổ sung cho thị trường. Đáng chú ý là lập luận về “sự thất bại của thị trường” trong việc giải thích sự can thiệp của nhà nước buộc phải thừa nhận một sự thất bại và bất lực hoàn toàn của thị trường, điều này lại đi ngược lại với nguyên tắc coi thị trường là tối thượng. Thực tế cho thấy, không một nền kinh tế nào là nền kinh tế “hoàn toàn” thị trường, tất cả các nền kinh tế trên thế giới đều có thể gọi là “nền kinh tế hỗn hợp” giữa thị trường và nhà nước duy chỉ khác biệt ở mức độ và cách thức nhà nước được sử dụng trong các hoạt động kinh tế. Với các nền kinh tế thị trường phát triển, chính phủ chủ yếu đóng vai trò điều tiết hay trọng tài của cuộc chơi, hoặc là người thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập, cung cấp phúc lợi công cộng, đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Nhưng với một số nền kinh tế được coi là nền kinh tế dựa vào nhà nước thì chính phủ có chức năng khác là điều phối quá trình chuyển đổi công nghiệp của đất nước, bao gồm cả việc đóng vai trò là nhà sản xuất trực tiếp. Hơn nữa, nhằm thực hiện vai trò điều phối, chính phủ ở các nước này tự làm giảm chức năng trọng tài công bằng và do đó không phát triển những chức năng như vậy [71, tr. 16]. Thực tế đã chứng


minh, hầu hết các nước đi sau lựa chọn mô hình nền kinh tế “dựa vào nhà nước” nhưng vẫn không từ bỏ lý thuyết về thị trường tự do.

Nhìn chung, các lý thuyết kinh tế học nêu trên có nhiều mặt hợp lý, có thể chỉ dẫn con đường phát triển kinh tế cho các quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề đáng chú ý là nhiều lý thuyết lại được xây dựng dựa trên những giả thuyết gắn liền với với các nước phát triển mà ở đó nền kinh tế thị trường đã phát triển ở trình độ cao. Trong khi đó ở nhiều nước đang phát triển, cả nhà nước và thị trường đều không hoạt động đúng như các giả định và giả thuyết của các lý thuyết trên. Do vậy, việc áp dụng các lý thuyết này ở các nước đang phát triển về cơ bản thường không mang lại những kết quả như kỳ vọng đặt ra.

Từ thực tế đó, nhiều nhà kinh tế đã phê phán lý thuyết kinh tế chính thống lúc đó và tiến hành đi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề nan giải nhất của các nước đang phát triển. Trong đó tiêu biểu là hai nhóm chính: Cấu trúc luận Thuyết tự do mới. Quan niệm về vai trò của nhà nước là điểm khác nhau chính và là trung tâm của cuộc tranh cãi giữa hai quan điểm lý thuyết này.

- Trường phái Cấu trúc luận ra đời khi lý thuyết về hệ thống thị trường tự do không còn được coi là lý thuyết kinh tế chính thống. Mục đích của trường phái này là đi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề của thế giới thứ ba và nó đã trở thành lý thuyết chính thống của các nước thế giới thứ ba. Trường phái này có phần chịu ảnh hưởng bởi học thuyết của J.M. Keynes và cũng được mở rộng, bổ sung thêm nhiều cách tiếp cận, trong đó có cả cách tiếp cận có định hướng cấp tiến như phương pháp luận mácxít. Việc đề cao vai trò nhà nước và họ cho rằng nhà nước ở các nước đang phát triển nên thực hiện vai trò can thiệp tích cực, đứng ra trực tiếp điều hành và thực hiện chiến lược phát triển là một trong những quan điểm nổi bật của họ.

Các nhà Cấu trúc luận tập trung bàn về mối quan hệ của các loại cơ cấu kinh tế - xã hội và sự phát triển kinh tế được coi như sự biến đổi có liên quan tới


các cơ cấu đó. Cơ cấu kinh tế được xem xét bao gồm nhiều mặt: cơ cấu ngành; cơ cấu kinh tế đối ngoại; cơ cấu năng suất; cơ cấu doanh nghiệp; cơ cấu xã hội. Theo quan điểm của trường phái này, thị trường không đủ khả năng đảm bảo sự phát triển kinh tế ổn định cũng như không thể giúp các nước đang phát triển cải tạo được cơ cấu kinh tế lạc hậu của mình. Do vậy, nhà nước cần đóng vai trò tích cực thúc đẩy tăng tích luỹ, tăng đầu tư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Họ nhấn mạnh đầu tư là yếu tố đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu phục vụ quá trình công nghiệp hoá. Chính phủ các nước thế giới thứ ba phải đóng vai trò trung tâm trong việc khắc phục tình trạng lạc hậu kinh tế, có vai trò tích cực trong quá trình công nghiệp hoá, đặc biệt là trong quá trình tích luỹ tư bản, yếu tố cần thiết hàng đầu cho đầu tư phát triển [34, tr. 23].

Ưu điểm, đồng thời cũng là nhược điểm của tư duy cấu trúc luận là nó phân tích một cách riêng rẽ bản chất của từng nền kinh tế hoặc từng vùng lãnh thổ đang phát triển, tách khỏi các nước hoặc các nền kinh tế phát triển, điều mà trong thực tế khó có thể tách bạch được. Họ phân tích những vấn đề liên quan đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của một quốc gia đang phát triển nhưng không thấy rõ được mối quan hệ tác động qua lại giữa sự phát triển của các yếu tố bên trong với bên ngoài, không nhận thức được những tác động tích cực của các quan hệ kinh tế quốc tế đối với những điều kiện ngoại thương tới các nước đang phát triển. Đây chính là lý do mà trường phái tự do mới được ủng hộ khi họ phê phán tính “biệt lập” và “tự cô lập” của cấu trúc luận và nêu ra sự cần thiết phát triển mạnh thương mại quốc tế và nêu ra yếu cầu đòi hạn chế bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường [34, tr. 29-31].

- Trong khi đó, trường phái Tự do mới lại cho rằng, các nước đang phát triển thất bại trong phát triển kinh tế có nguyên nhân từ việc không tận dụng được những cơ hội mà sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đem lại.

Các tác giả của trường phái Tự do mới tin tưởng vào sự điều tiết của thị trường, đặc biệt là giá cả và cho rằng, giá cả thị trường là yếu tố quyết định sự


phân phối nguồn lực. Luận cứ chính của thuyết tự do mới là sai lệch giá cả sẽ sinh ra phi hiệu quả và tự do hoá mậu dịch sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả hơn. Giá cả được đề cập đến trong cách tiếp cận của chủ nghĩa tự do mới bao gồm: giá cả của các hoạt động thương mại trong một quốc gia; giả cả trong hoạt động ngoại thương; giá cả liên quan đến tỷ lệ lãi suất và tiền lương; giá cả cơ sở hạ tầng và đầu vào cho sản xuất. Theo họ, khi giá cả bị chệch khỏi mức giá cả thị trường tự do thì nền kinh tế sẽ không đạt hiệu quả. Giá cả thị trường tự do được xác định trên thị trường thế giới. Sự sai lệch giá cả có thể do độc quyền tư nhân, song trong phần lớn các trường hợp có nguyên nhân từ sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ khi theo đuổi một số mục tiêu kinh tế hoặc xã hội nào đó. Do vậy, những sự sai lệch về giá cả cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với giá cả thị trường và để loại bỏ sự sai lệch về giá cả và thực hiện “giá cả hiệu quả” cần để các lực lượng thị trường hoạt động trong phạm vi quốc gia cũng như trong các quan hệ kinh tế quốc tế [34, tr. 37].

Điểm nổi bật trong nội dung lý thuyết Tự do mới là sự phê phán gay gắt sự can thiệp sâu của nhà nước. Các tác giả thuộc trường phái này lập luận rằng sự can thiệp trực tiếp và sâu rộng của nhà nước, điển hình là việc thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch giá cả. Theo họ, việc thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch ở nhiều nước giúp cho các doanh nghiệp ở các nước này tránh khỏi sự cạnh tranh quốc tế, không phải chịu sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh như ở các nước thực hiện thị trường mở. Tình trạng chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp là những đặc trưng nổi bật của nhiều ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, ở nhiều nước đang phát triển, nhà nước còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế như những nhà lập kế hoạch thiếu thông tin, đề ra kế hoạch không sát thực tế, không có công cụ làm đòn bẩy cho việc thực thi kế hoạch, nhà nước còn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các cơ sở kinh tế, chi tiêu ngân sách quá mức, vay nợ nhiều... Từ đó, họ cho rằng, cần phải giảm bớt sự can thiệp


trực tiếp của nhà nước, thực hiện tự do hoá mậu dịch thông qua việc giảm bớt các chính sách và biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan [34, tr. 37].

Về cơ bản, thuyết Tự do mới là một xu hướng phát triển mới của thuyết Tân cổ điển về sự phát triển của kinh tế thị trường tự do, đề cao vai trò của các lực lượng thị trường trong việc khắc phục những hạn chế do nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế gây ra, khuyến khích việc áp dụng các chính sách kích thích sự phát triển của kinh tế thị trường tự do và mở cửa. Đó là một loại quan điểm phát triển mang tính chính sách. Tuy không phủ nhận vai trò quan trọng của nhà nước nhưng muốn hạn chế bớt sự can thiệp trực tiếp và quá sâu của nhà nước làm cho nền kinh tế mất đi tính năng động và hiệu quả.

Thực tế, cả hai trường phái lý thuyết Cấu trúc luận Tự do mới đều có ảnh hưởng chi phối đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở các nước đang phát triển trong những khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, vào những năm 1980, khi quá trình toàn cầu hoá cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học – công nghệ hiện đại, của công nghệ thông tin, của kinh tế tri thức thì thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề mới với các nước đang phát triển và do đó những quan điểm mới có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được bổ sung cho những trường phái lý thuyết này. Mặc dù vậy, cả hai trường phái này đều bộc lộ những hạn chế trước xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng mạnh mẽ và sự phát triển của công nghệ mới đó là đều chưa tìm ra lời giải đáp thoả đáng cho nhiều vấn đề mới nảy sinh như kinh tế tri thức, thương mại điện tử… [34, tr. 48].

Ngày nay, trong xu thế phát triển của thế giới đương đại, ngày càng nhiều vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở các nước đang phát triển, trong đó nổi bật là các vấn đề về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; việc xác định sự phân công hợp lý giữa nhà nước và thị trường nhằm khai thác triệt để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc giảm thiểu những mặt hạn chế của nhà nước cũng như thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng, các nước đang phát triển có thể cải thiện tình hình kinh tế thông qua việc cải cách theo

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/11/2022