- Về chính sách phát triển nông nghiệp
Giai đoạn này, Đài Loan coi nông nghiệp là ngành chủ đạo với phương châm “lấy nông nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp và lấy công nghiệp để hỗ trợ nông nghiệp”. Nhà nước tiếp tục thực hiện chương trình cải cách ruộng đất và đã chia cho 195.000 hộ nông dân không đất góp phần hình thành các nông hộ quy mô nhỏ. Đồng thời, nhà nước còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nông dân như cho vay vốn với lãi suất thấp, quy hoạch lại ruộng đất, củng cố các hiệp hội nông dân, mua nông sản với giá cao hơn giá thị trường khi cần thiết, tăng cường hỗ trợ các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, nhà nước Đài Loan thực hiện đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp chủ yếu là xây dựng các công trình thuỷ lợi, mở mang hệ thống giao thông nông thôn, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp.
Các chính sách, biện pháp trên đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Từ 1953 đến 1960, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp đạt gần 5% bình quân hàng năm [63, tr. 42]. Đài Loan đã không còn phải nhập khẩu lương thực, sản xuất nông nghiệp phát triển cũng làm gia tăng các nguồn nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến. Ngoài ra, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1960 đóng góp 56% tổng giá trị xuất khẩu).
- Về chính sách phát triển công nghiệp
Trong giai đoạn này, Đài Loan xác định công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là chủ lực, bên cạnh đó chú ý phát triển một số ngành công nghiệp khác như xây dựng, năng lượng nhằm vừa tạo tích luỹ ban đầu cho phát triển kinh tế vừa chuẩn bị các điều kiện về cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho giai đoạn sau. Do hạn chế về nguồn vốn, về trình độ kỹ thuật - công nghệ nên chính sách công nghiệp của Đài Loan hướng vào phát triển các cơ sở công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư không nhiều, yêu cầu lao động kỹ thuật
không cao để sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu như dệt, may mặc, giầy, da, cao su, xe đạp, các loại máy phát điện, vật liệu xây dựng, phân bón và nông cụ... Nhà nước thực hiện chính sách bảo hộ và hỗ trợ các ngành công nghiệp non trẻ thông qua việc kiểm soát nghiêm ngặt nhập khẩu, miễn giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất thấp, hỗ trợ các doanh nghiệp trong cung cấp nguyên liệu, đảm bảo về thị trường cho các doanh nghiệp trọng điểm.
- Chính sách coi trọng phát triển khu vực kinh tế quốc doanh
Trong những năm 1950, với chủ trương coi xí nghiệp quốc doanh là chủ đạo, nhà nước Đài Loan đã tăng chi ngân sách đầu tư xây dựng các xí nghiệp quốc doanh quy mô lớn, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, giao thông, công nghiệp chế tạo... nhằm thực hiện chức năng mở đường cho sự phát triển một số ngành công nghiệp. Năm 1952, khu vực này chiếm 56,6% tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế; 56,2% tổng giá trị gia tăng trong khu vực chế tạo và 100% trong các ngành cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng. Thực tế, sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh đã góp phần quan trọng vào thu ngân sách của nhà nước (những năm 1950 chiếm 21,4% thu ngân sách của chính quyền trung ương). Các xí nghiệp quốc doanh đóng vai trò tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân về nguyên vật liệu, về tài chính và dựa vào các doanh nghiệp tư nhân để tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, việc mở rộng khu vực kinh tế quốc doanh đã tạo thêm nhiều việc làm mới và góp phần đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhà Nước Xác Định Và Điều Chỉnh Chiến Lược Cnh, Hđh
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 7
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 8
- Các Chính Sách, Giải Pháp Trong Cnh, Hđh
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 11
- Nhà Nước Điều Chỉnh Nội Dung Chiến Lược Cnh, Hđh
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
- Chính sách huy động các nguồn vốn tín dụng và viện trợ cho đầu tư phát triển
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, quan điểm “tự lực tăng trưởng” đã chi phối các chính sách huy động vốn cho công nghiệp hoá ở Đài Loan. Nhà nước đã thực hiện chính sách nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng để khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm. Trong những năm 1950, Đài Loan đã nâng mức lãi suất tiền gửi ngân hàng lên 7%/ tháng. Do vậy, từ 1952 đến 1955, số tiền gửi
chiếm 34,3% và từ 1956 đến 1958 chiếm 34,6% trong tổng lượng tiền phát hành. Đồng thời, chính phủ Đài Loan cũng chú trọng tranh thủ viện trợ của Mỹ và các nước phương Tây. Những khoản viện trợ của Mỹ đã góp phần cấu thành 23,5% tài sản cố định của Đài Loan trong giai đoạn 1952 - 1956. Nhìn chung, các chính sách huy động vốn đã góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ cho đầu tư phát triển các ngành kinh tế. Thời kỳ 1951 - 1960, riêng tỷ lệ tiết kiệm nội địa đã chiếm 9,7% GDP [80, tr. 24].
Một số kết quả bước đầu của công nghiệp hoá
Với những chính sách và giải pháp tích cực từ phía nhà nước và nỗ lực của các doanh nghiệp, hộ gia đình trong thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, nền kinh tế Đài Loan đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Từ 1953 đến 1962, sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,7% mỗi năm [80, tr. 13]. Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng của nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Năm 1951, ngành nông nghiệp chiếm còn tới 35,5% giá trị GDP thì đến năm 1960 giảm còn 28,7% trong khi tỷ trọng của công nghiệp đã tăng lên chiếm 29,6% và dịch vụ chiếm 41,7% GDP. Trong giai đoạn 1953 - 1963, GNP của Đài Loan tăng bình quân 7,74% hàng năm. Sự phát triển của các ngành công nghiệp còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao động. Trong giai đoạn 1955 - 1960, tỷ lệ thất nghiệp ở Đài Loan chỉ còn xấp xỉ 4% [63, tr. 45]. Kim ngạch xuất khẩu cũng có xu hướng gia tăng. Năm 1963, giá trị xuất khẩu là 332 triệu USD. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp bắt đầu tăng lên, năm 1953 các sản phẩm công nghiệp chỉ chiếm 8,4% nhưng đến năm 1962 đã tăng lên 50,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu [63, tr. 51].
Những kết quả trên cho thấy, việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu về cơ bản phù hợp với hoàn cảnh Đài Loan lúc đó. Từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trình độ kỹ thuật thấp kém, thiếu lực lượng những nhà tư bản có tiềm lực thì việc tập trung phát triển nông nghiệp sẽ
vừa giải quyết vấn đề lương thực, vừa tạo tích luỹ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp. Những chính sách từ phía nhà nước nhằm huy động và phân bổ sử dụng các nguồn lực, nhất là nội lực đã phát huy tác dụng. Đặc biệt, chính sách bảo hộ và ưu đãi của nhà nước đã tạo điều kiện cho sự ra đời của các ngành công nghiệp mới, đã góp phần thay thế dần các mặt hàng nhập khẩu. Nhìn chung, Đài Loan đã thực hiện được những mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Tuy nhiên, xét về lâu dài, do vốn, công nghệ hạn chế và thị trường nội địa nhỏ hẹp nên việc tiếp tục thực hiện chiến lược này sẽ đứng trước những thách thức lớn. Điều đó đặt ra yêu cầu điều chỉnh nội dung chiến lược công nghiệp hoá.
2.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN (THỜI KỲ 1961 - 2003)
Từ 1961 đến 2003, Đài Loan tiếp tục thực hiện quá trình CNH, HĐH và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế, quá trình CNH, HĐH ở Đài Loan có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn từ 1961 đến 1982 thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và giai đoạn từ 1983 đến 2003 đẩy mạnh hiện đại hoá, hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và chuyển dần sang giai đoạn phát triển kinh tế tri thức. Nội dung của phần này tập trung phân tích về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.1. Giai đoạn 1961 - 1982
2.2.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Đến đầu những năm 1960, sản xuất công nghiệp Đài Loan rơi vào trạng thái trì trệ. Công nghiệp chế biến, ngành chủ lực đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh của công nghiệp Đài Loan tốc độ tăng trưởng giảm từ 14,4% năm 1960 xuống còn 8,1% năm 1962 [80, tr. 13]. Sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng công
nghiệp đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế Đài Loan. Điều đó cho thấy chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã bộc lộ rõ những hạn chế:
- Mục tiêu của Đài Loan là phải phát triển hầu hết các ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm tiêu dùng trước đó phải nhập khẩu nhưng với những hạn chế về nguồn vốn, trình độ kỹ thuật - công nghệ, nguồn nhân lực được đào tạo và bị giới hạn của hiệu quả về quy mô thì những yêu cầu trên khó có thể thực hiện được. Đồng thời, sự hạn hẹp về thị trường tiêu thụ (cả về quy mô và sức mua) cũng là yếu tố kìm hãm sự phát triển của công nghiệp. Thêm vào đó, sự dư thừa lao động nông nghiệp, sự di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp diễn ra rất chậm đã gây sức ép lớn về việc làm và các vấn đề xã hội khác.
- Về cơ bản, nền công nghiệp Đài Loan mới dừng lại ở việc sản xuất những sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Các máy móc, thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất hầu như đều phải nhập khẩu. Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm được cải thiện. Sản phẩm xuất khẩu cũng chỉ giới hạn ở một số ít sản phẩm truyền thống giá trị thấp như đường, gạo, dứa... và chỉ xuất khẩu sang một số thị trường (đặc biệt là Nhật Bản) được thiết lập thông qua quan hệ thương mại từ thời kỳ trước và trong chiến tranh. Mặc dù thực hiện kiểm soát nghiêm ngặt ngoại thương nhưng Đài Loan vẫn rơi vào tình trạng nhập siêu. Năm 1961, nhập siêu của Đài Loan là 137 triệu USD [63, tr. 51]. Tỷ lệ nhập siêu cao được tích lại từ nhiều năm đã tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế. Những tác động từ ngoại thương đối với sự thay đổi cơ cấu công nghiệp vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể.
- Việc thực thi chính sách bảo hộ công nghiệp đã dẫn đến tình trạng các nhà sản xuất nội địa ít quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Do vậy, giá cả các sản phẩm được bảo hộ ở thị trường nội địa thường cao hơn giá sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới nên sản phẩm không có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chính sách bảo hộ mậu dịch và việc áp dụng tỷ giá hối đoái cao đã khuyến khích việc tăng cường sử dụng vật tư nhập khẩu và không chú ý đúng mức đến việc áp dụng các loại công nghệ sử
dụng nhiều lao động nên mục tiêu giải quyết vấn đề việc làm trong công nghiệp rất khó thực hiện được. Ngoài ra, trong bối cảnh nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế đã tạo ra một bộ máy quản lý quan liêu và trên phương diện kinh tế, nó triệt tiêu động lực cạnh tranh.
- Một điểm đáng chú ý nữa là trong những năm 1950, Đài Loan là một trong số quốc gia và vùng lãnh thổ chủ yếu nhận viện trợ quân sự và đầu tư của Mỹ. Tổng số viện trợ thời gian này lên đến 2 tỷ USD đã có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế Đài Loan, nhất là trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở [87, tr. 49]. Tuy nhiên, từ năm 1961, Mỹ tuyên bố cắt giảm dần viện trợ cho Đài Loan. Điều đó cũng có nghĩa là Đài Loan mất dần nguồn hỗ trợ tài chính từ bên ngoài cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thực trạng đó cho thấy, việc tiếp tục duy trì chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sẽ không thể giúp Đài Loan thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
Mặc dù ở bên trong Đài Loan gặp phải nhiều thách thức to lớn nhưng tình hình thế giới đầu những năm 1960 lại có những biến động lớn và tác động theo hướng có lợi đối với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó có Đài Loan, nhất là những cơ hội để thâm nhập, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường nước ngoài và những cơ hội lớn để tiếp thu những nguồn lực quan trọng từ nước ngoài. Cụ thể:
- Đài Loan nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là một phần lãnh thổ tách ra từ Trung Quốc nên có vị thế địa - chính trị, địa - kinh tế đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống XHCN và TBCN nên được các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ hỗ trợ nhiều mặt. Do vậy, Đài Loan có thể tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển khi không phải dành khoản ngân sách đáng kể cho hoạt động quốc phòng an ninh và còn tiếp nhận được các khoản viện trợ tài chính và những ưu đãi trong tiếp cận thị trường Mỹ.
- Môi trường kinh tế quốc tế thời gian này đã tạo ra những thuận lợi cho các nước thực hiện mục tiêu gia tăng xuất khẩu. Nền kinh tế các nước tư bản phát triển đang trong thời kỳ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Cơ cấu ngành kinh tế ở các nước này chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng của các ngành dịch vụ, các ngành công nghệ cao và giảm bớt tỷ trọng của các ngành sử dụng nhiều lao động do sức ép về tiền công gia tăng. Các hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế được mở rộng và phát triển nhanh chóng, hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế được duy trì tương đối ổn định. Đó là thời cơ lớn cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp cận và khai thác, đặc biệt là khai thác những khoảng trống thị trường các sản phẩm tiêu dùng mà nhiều nước phát triển bỏ lại. Ngoài ra, cũng do quy mô lãnh thổ nhỏ bé, các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn nên Đài Loan buộc phải hướng đến tìm kiếm nguồn lực từ bên ngoài và mở rộng thị trường nước ngoài để thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ đã làm xuất hiện nhu cầu đổi mới và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Chính xu thế đó đã tạo điều kiện cho các nền kinh tế đi sau trong công nghiệp hoá như Đài Loan có thể tiếp nhận được những nguồn công nghệ bên ngoài thông qua nhập khẩu máy móc, thiết bị, thông qua thu hút FDI để phát triển những ngành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Thêm nữa, sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ dựa trên nền tảng mang tính chuẩn mực của kỹ thuật điện khí, điện tử và hoá chất cũng xác định rõ mục tiêu cho Đài Loan cần phải đạt tới để thâm nhập thị trường thế giới.
2.2.1.2. Nội dung chiến lược CNH, HĐH
Nắm bắt những cơ hội to lớn mà môi trường kinh tế quốc tế đem lại đồng thời giải toả những sức ép từ nội bộ nền kinh tế, từ đầu những năm 1960, nhà nước Đài Loan đã chuyển hướng sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những nội dung cơ bản sau:
Về mục tiêu của chiến lược CNH, HĐH
Chính phủ Đài Loan xác định mục tiêu cơ bản của chiến lược mới là tập trung đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm đưa nền kinh tế Đài Loan ra khỏi tình trạng kém phát triển, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
Về bước đi trong CNH, HĐH
Mục tiêu cơ bản xuyên suốt của chiến lược mới là phát triển những ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng bước đi cho từng giai đoạn được điều chỉnh linh hoạt dựa trên nguyên tắc cơ bản là phải khai thác và phát huy những lợi thế so sánh của từng ngành, lĩnh vực. Điều đó có nghĩa là Đài Loan lựa chọn một cơ cấu kinh tế không cân đối với các “cực tăng trưởng” dựa trên những lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương.
Về bước đi, giai đoạn đầu Đài Loan tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động để khai thác lợi thế về lao động giá rẻ cho sản xuất xuất khẩu, sau đó tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nặng sản xuất các tư liệu sản xuất thay thế nhập khẩu và các ngành công nghiệp có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao để nâng cao trình độ công nghiệp và tạo giá trị gia tăng cao. Từ những năm 1970, Đài Loan đã bắt đầu triển khai chiến lược nâng cấp nền kinh tế với nội dung là phát triển mạnh các ngành dịch vụ và các ngành công nghiệp mới nhằm tạo ra một cơ cấu ngành kinh tế năng động, hiệu quả và hướng dần đến giai đoạn phát triển kinh tế tri thức.
Về định hướng giải pháp huy động các nguồn lực cho CNH, HĐH
Nội dung chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đặt trọng tâm phát triển vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh của Đài Loan trên thị trường quốc tế và đặt các doanh nghiệp, các sản phẩm nội địa đối mặt với áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu của nhà nước Đài Loan đều nhằm khuyến khích xuất khẩu với một nguyên lý chung là đảm