Quan Điểm, Chủ Trương Của Đảng Vẻ Xây Dựng Đội Ngũ Trí Thức Trong Những Năm Đầu Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa (1996 -2008)


Có trên 59% các trường đại học đứng chân ở Hà Nội, 25% ở miền Nam và chỉ có 19% ở miền Trung. Đội ngũ cán bộ KH-KT ở các cơ sở nghiên cứu nhà nước, viện nghiên cứu trung ương là trên 90% [23]. Đội ngũ cán bộ KH-CN hoạt động còn phân tán, chưa được tổ chức thành những tập thể mạnh. Chưa có cơ chế liên kết các cơ quan, các nhà trí thức trong mối quan hệ thống nhất. Nghiên cứu triển khai còn bỏ trống cơ sở, các đơn vị sản xuất - kinh doanh.

Tình trạng chính sách lạc hậu so với thực tế hoặc thiếu những chính sách cơ bản và chế độ chưa hợp lý (nhuận bút, mua bán các tác phẩm nghệ thuật, lương nghiệp vụ, quyền tác giả,...) đã hạn chế rất nhiều tiềm năng sáng tạo nghệ thuật, dẫn đến một bộ phận văn nghệ sỹ giảm sút niềm tin vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước. Trong hoạt động văn hoá - nghệ thuật xuất hiện những biểu hiện tiêu cực. Bên cạnh những tác phẩm tốt, phản ánh sự nghiệp chiến tranh và cách mạng hào hùng của dân tộc, những thành tựu của công cuộc đổi mới, xuất hiện những tác phẩm phủ nhận quá khứ, xuyên tạc sự thật lịch sử.

Một bộ phận trí thức bất bình với sự phân phối còn mang nặng tính bình quân bất hợp lý và mong muốn được Đảng, Nhà nước và xã hội đánh giá đúng để có chính sách đãi ngộ đúng với giá trị lao động sáng tạo. Tâm trạng của nhiều trí thức là băn khoăn, lo ngại đối với tình hình sa sút về văn hóa, đạo đức, xu thế chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, bất chấp đạo lý, truyền thống dân tộc, nạn tham nhũng, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hạn chế khuyết điểm của công tác xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ này là:

Hoạt động xây dựng ĐNTT còn bất cập. Trong thời gian dài chưa thể chế hóa, cụ thể hóa chính sách trọng đãi trí thức.

Cơ chế giao việc, sử dụng nhân tài của Trung ương và địa phương còn bất cập với tinh hình, chưa mạnh dạn đề xuất những chính sách riêng phù hợp, đủ mạnh


để thu hút tài năng, chất xám của trí thức phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc quy hoạch ĐNTT làm công tác lãnh đạo, quản lý ở các địa phương còn chắp vá, dẫn đến tình trạng hụt hẫng một thế hệ cán bộ quản lý KT-XH.

Một số quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước không được các cấp thực hiện nghiêm túc, khi xuống địa phương bị lệch lạc. Khi chuyển sang cơ chế mới, xuất hiện quan niệm không đúng về "xóa bao cấp" đối với văn hóa, văn nghệ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ở các cấp vẫn chưa thật sự quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về công tác trí thức. Vì vậy, có nơi có lúc, vẫn còn xem trí thức là lực lượng phi sản xuất, nhìn nhận trí thức thiên về những hạn chế, có định kiến, hẹp hòi do vậy chưa thật tin cậy và sử dụng những trí thức tài năng và có ý kiến khác hoặc trái với người lãnh đạo, quản lý. Những yếu kém trong lãnh đạo triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về cồng tác trí thức khiến một bộ phận trí thức có tâm trạng là mình chưa được tin cậy.

Nhiều định hướng, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động của trí thức không được thực hiện nghiêm túc, chủ yếu là do chậm trễ hoặc không được cụ thể hóa thành các chính sách, chế độ của Nhà nước. Chậm xây dựng chiến lược nhân tài và quy hoạch dài hạn về đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT, đặc biệt là đào tạo trí thức mới ở trình độ đại học và trên đại học, cả trong nước và ở nước ngoài để từng bước hình thành ĐNTT Việt Nam với chất lượng cao, đủ sức đáp ứng những yêu cầu công cuộc CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, do thiếu chiến lược, không dự báo được nhu cầu phát triển nên đầu tư chưa hợp lý cho đào tạo đại học và sau đại học.

Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 10

Công tác tổ chức cán bộ còn những yếu kém, chưa tuyển dụng và bổ nhiệm, bố trí cán bộ theo khả năng chuyên môn và năng lực quản lý. Những mô hình mới trong cách lĩnh vực hoạt động sáng tạo, các nhà khoa học giỏi có thành tích và khả


năng trong nghiên cứu, ứng dụng chưa được tạo cơ chế, khuyến khích đúng mức. Chính sách sử dụng và đãi ngộ chưa tương xứng với sự đóng góp của trí thức nên chưa tạo được động lực đối với các cá nhân và tập thể cán bộ khoa học.

Sản phẩm KH-CN chưa được chú ý ứng dụng, do vậy đời sống của ĐNTT, kể cả cán bộ khoa học đầu ngành còn nhiều khó khăn. Trên thực tế, nhiều cơ quan, đơn vị chưa coi trọng công tác quản lý, KH-CN; phương pháp khoa học còn ít được sử dụng để làm cơ sở cho quá trình tạo lập quyết định. Còn quan niệm lao động trí óc không phải là sản xuất nên mức thu nhập của trí thức thường thấp hơn lao động vật chất, đời sống của trí thức vì vậy gặp nhiều khó khăn. Những người có điều kiện cải thiện cuộc sống chủ yếu là giám đốc doanh nghiệp, làm chủ nhiệm dự án hợp tác với nước ngoài, được đi nước ngoài,...

Vẫn chưa có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, giúp cho trí thức, nhất là trí thức KHXH mở rộng giao lưu, trao đổi với nước ngoài, nên người nước ngoài hiểu biết về Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Mức đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức đã tăng đáng kể nhưng vẫn còn quá thấp. Việc tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, các phương tiện và điều kiện làm việc, hiện đại hóa thông tin, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạt động chuyên môn của trí thức còn nhiều hạn chế.

Kinh phí đầu tư cho KH-CN gần như duy nhất từ ngân sách nhà nước lại chưa đạt "tới ngưỡng" và phân bổ dàn trải. Mặc dù đề ra chủ trương chi ít nhất 2% ngân sách hàng năm đầu tư cho KH-CN, nhưng thực tế không đạt mức đề ra, chưa thực hiện quá 1% chi ngân sách hàng năm. Năm 1986 đầu tư cho KH-CN chiếm tỷ lệ cao nhất (1,6% ngân sách nhà nước), năm 1993 chỉ chiếm 1%. Chi phí bình quân hàng năm cho mỗi cán bộ KH-CN từ ngân sách nhà nước đạt khoảng 1.000 USD, còn thấp so với mức bình quân của thế giới và các nước trong khu vực như: Thái Lan (18.000 USD), Singapore (53.000 USD), Hàn Quốc (56.000 USD), Nhật Bản


(134.000 USD) [20]. Việc huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách nhà nước cho hoạt động KH-CN chưa được chú ý đúng mức và còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, chưa tạo ra được những kết quả khoa học lớn, có tầm cỡ chiến lược.

Việc đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần chưa kịp với lĩnh vực sản xuất vật chất. Việc đánh giá giá trị lao động sáng tạo của trí thức chưa thỏa đáng, vẫn mang nặng tính bình quân. Do vậy chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy lao động sáng tạo của trí thức một cách rộng khắp.

Công tác lãnh đạo chính trị và giáo dục tư tưởng đối với trí thức chưa được tăng cường đúng mức. Ở không ít các cơ sở tập trung đông trí thức, tổ chức cơ sở đảng chưa thật sự chăm lo đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1945 – 1991, Đảng đặc biệt quan tâm xây dựng ĐNTT. Đảng chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng ĐNTT cách mạng gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, coi đó là nhân tố có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công của cách mạng. Cùng với những thắng lợi đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, ĐNTT cách mạng từng bước hình thành và phát triển.

Trong những năm 1986-1996, cùng với lãnh đạo thực hiện ổn định KT- XH, Đảng ta đổi mới công tác xây dựng ĐNTT và đạt những kết quả quan trọng. Đảng xác định trí thức là một tầng lớp xã hội có tính đặc thù và độc lập tương đối trong xã hội, là một bộ phận của liên minh công - nông - trí. Nhiều chủ trương, chính sách đối với trí thức và các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức được đổi mới và tăng cường, đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN phát triển mạnh mẽ. Những chủ trương, chính sách mới về xây dựng ĐNTT là bộ phận trong đường lối đổi mới toàn diện của Nhà nước. Quan điểm, chủ trương về xây dựng ĐNTT từng bước được thực thi có hiệu quả trong thực tế. ĐNTT giữ vững sự ổn định về số lượng, trình độ được nâng lên một bước; vững


vàng về chính trị tư tưởng trong những thời điểm đất nước gặp nhiều khó khăn thách thức; trí thức đã góp phần quan trọng, trực tiếp vào những thành tựu đạt được trong những năm đẩy mạnh đổi mới (1986-1996), đưa nước thoát ra khỏi khủng hoảng KT-XH, nâng cao tiềm lực của dân tộc, để đất nước vững bước trên con đường CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Thực trạng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông, nhưng không đồng bộ, thiếu những cán bộ thạo công nghệ, giỏi quản lý, nhũng chuyên gia có khả năng chủ trì các chương trình, đề tài khoa học có ý nghĩa quan trọng đối vói quốc kế, dân sinh. Trong nhiều năm, khoa học nước ta, nhất là khoa học xã hội, chưa có quan hệ rộng rãi với các nước ngoài nên chưa tiếp cận nhiều với những thành tựu mới của khoa học thế giới [124, tr. 558]

Trước yêu cầu thực tiễn đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cả về lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trình độ năng lực của trí thức còn bất cập cần khắc phục:

Khoa học xã hội chưa nghiên cứu sâu sắc và lý giải một cách thuyết phục, có căn cứ khoa học nhiều vấn đề cơ bản về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; chưa cung cấp đầy đủ luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục thế giới quan và phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng nhân sinh quan và đạo đức cách mạng [121, tr. 557].

Đây chính là yêu cầu đặt ra đòi hỏi bước sang thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước phải có quyết sách mới để phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc, đưa đất nước hòa với nhịp bước thời đại.


Chương 3‌


QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1996- 2008)

3.1. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VẺ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 -2008)


Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ KH-XH hàng năm đều thực hiện đạt và vượt. Sản lượng một số sản phẩm hàng hóa nông, lâm, ngư nghiệp đạt cao, sản xuất công nghiệp có tăng trưởng. Chương trình xóa đói giảm nghèo thực hiện có hiệu quả. Hoạt động đối ngoại giành nhiều kết quả to lớn, đã phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch; quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở. Nước ta đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chuyển sang một thời kỳ mới: Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Bối cảnh mới của đất nước vừa là điều kiện thuận lợi cơ bản, đồng thời vừa đặt ra yêu cầu cấp bách về tăng cường xây dựng ĐNTT của Nhà nước.

Quan điểm cơ bản của Đảng về xây dựng ĐNTT trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH là tiếp tục nhất quán: Tôn trọng, tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài, coi nhân tài là vốn quý quốc gia. Coi đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung, trí thức nói riêng, là đầu tư phát triển, có tầm quan trọng hàng đầu và cấp thiết. Chú trọng phát huy bản chất giàu lòng yêu nước, gắn bó với lợi ích của quốc gia, của dân tộc, chí khí, hoài bão và quyết tâm đưa đất nước tới phồn thịnh, văn minh, hiện đại và hòa bình của ĐNTT. Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc phát triển, xây dựng ĐNTT, quan tâm chăm lo lợi ích để họ cống hiến, phát huy năng lực sáng tạo của mình.

Bên cạnh những thuận lợi, công tác xây dựng ĐNTT trong tiến trình CNH, HĐH cũng gặp nhiều khó khăn, do tình hình phát triển KT-XH đất nước đứng trước những biến động của khu vực, thế giới: Trung bình cả nước có 15% dân số còn thuộc đói nghèo. Sự phân hóa giàu - nghèo, sự chênh lệch về phát triển kinh tế và mức sống của người dân giữa các vùng, miền diễn ra nhanh và ngày càng rộng, việc thực hiện chính sách xã hội, công bằng xã hội còn nhiều bất cập,... Một số vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc ở Hà Giang, Lai Châu, Cao Bằng tỷ lệ nghèo đói


tới 40-50%, số người mù chữ khá lớn, nhiều người đau ốm không có điều kiện khám chữa bệnh.

Trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc, GD-ĐT được coi là một lĩnh vực dịch vụ cần được mở cửa đầu tư, công tác đào tạo và bồi dưỡng trí thức đặt ra nhiều vấn đề có thể vừa ―hợp tác‖ để tiếp biến được những yếu tố tích cực, đồng thời phải ―đấu tranh‖ khắc phục được những vấn đề tiêu cực, giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc trong mục tiêu GD- ĐT; nâng cao ý thức dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch chưa từ bỏ các âm mưu chống phá chế độ XHCN, gia tăng các hoạt động chống đối, kích động bạo loạn lật đổ, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc,... tác động không nhỏ đến ý thức và tình cảm của ĐNTT. Trí thức ngày càng phải đối mặt với những nhân tố phức tạp.

Công cuộc CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi cơ bản, toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT-XH, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KH-CN, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. KH-CN là tiền đề, nền tảng của CNH, HĐH, trong đó trí thức có vị trí, vai trò quan trọng, là một chủ thể trong việc phát huy nguồn lực con người, động lực phát triển KT-XH. ĐNTT là lực lượng then chốt trong việc ứng dụng và phát triển thành tựu KH-CN vào thực tiễn cuộc sống, tạo điều kiện để đất nước phát triển theo chiều sâu, tăng trưởng kinh tế bằng nguồn lực tri thức.

Mặt khác, thực hiện CNH, HĐH, trí thức có điều kiện lao động sáng tạo để đóng góp vào sự phát triển của các lĩnh vực KT-XH. Cùng với GD-ĐT, KH-CN có khả năng phát huy tiềm năng trí tuệ của dân tộc, để Việt Nam tiếp cận và chiếm lĩnh vị trí ưu thế trong khu vực ASEAN và tiến tới có vị thế trên trường quốc tế.

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí