Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 5


định hướng thị trường nhưng không có nghĩa là hạ thấp vai trò của nhà nước; quy mô của khu vực nhà nước và mức độ can thiệp của nhà nước không quan trọng bằng cách thức hoạt động của nhà nước và quan hệ giữa nhà nước và khu vực tư nhân. Họ nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nước cần phải điều chỉnh liên tục phù hợp để khai thác tối đa những cơ hội và giảm thiểu những rủi ro từ hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm chính thống hiện đại được đề xuất bởi các nhà kinh tế của WB đã nêu rõ, nhà nước nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt và nên tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực không thể dựa vào thị trường. Đồng thời, khi các hành động can thiệp là cần thiết, chúng nên đi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ không phải chống lại thị trường [67, tr. 30]. Trên cơ sở tổng hợp các kinh nghiệm thực tế ở NIEs châu Á thời gian qua, Robert Wade đã đúc kết lại sáu chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đó là: Nhà nước duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô; Nhà nước cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất; Nhà nước cung cấp các hàng hoá công cộng; Nhà nước góp phần phát triển các thể chế để cải thiện các thị trường lao động, tài chính, công nghệ... ; Nhà nước loại bỏ những méo mó, lệch lạc về giá cả khi thị trường có những sự phát triển thái quá dẫn đến những “thất bại thị trường”, làm tổn hại cho nền kinh tế; Nhà nước phân phối lại thu nhập, đảm bảo đủ những nhu cầu cơ bản cho người nghèo nhất [34, tr. 425].

Thứ hai, các lý thuyết về phương pháp và công cụ giải quyết những vấn đề kinh tế của các nước đang phát triển

Ngoài cách tiếp cận trên giác độ lý thuyết kinh tế học nêu trên, một số lý thuyết tiếp cận nghiên cứu trên giác độ phương pháp và công cụ nhằm định hình cách thức tiến hành để thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội ở các nước đang phát triển.

- WB sử dụng phương pháp tiếp cận khung, tức là coi nền kinh tế như một hệ thống thống nhất, là tập hợp các nguyên tắc của quy chế theo đó các chủ thể kinh tế ra quyết định và thực hiện các quyết định trong phạm vi một nền kinh tế


nhất định. Họ cho rằng sự can thiệp trực tiếp của chính phủ sẽ làm méo mó thị trường, các điều kiện kinh doanh và điều đó sẽ dẫn tới tình trạng kém hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Họ coi tự do hoá với tốc độ nhanh là yếu tố cơ bản để loại bỏ những méo mó và bất hợp lý trong phân bố nguồn lực, đồng thời chính phủ không cần xác định ngành công nghiệp tiềm năng và ưu tiên phát triển mà chính thị trường sẽ thực hiện điều đó [19, tr. 62]. Về mục tiêu chính sách, phương pháp tiếp cận này coi việc giải quyết các vấn đề thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thanh toán, cung ứng tiền tệ, lạm phát và nợ nần là những ưu tiên cao nhất. Những người ủng hộ phương pháp này đặt trọng tâm vào tự do hoá với sự can thiệp của chính phủ ở mức thấp nhất. Về tốc độ chuyển đổi và điều chỉnh, phương pháp này coi quá trình điều chỉnh có thể thực hiện được ngay trong ngắn hạn và càng nhanh càng tốt.

- Các chuyên gia kinh tế của chính phủ Nhật Bản bàn về việc giải quyết các vấn đề kinh tế của các nước đang phát triển lại sử dụng phương pháp tiếp cận thiết lập bộ phận. Họ coi nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần riêng lẻ khác nhau: doanh nghiệp, bộ máy hành chính nhà nước, dự án đầu tư, các ngành kinh tế và chúng có liên quan đến các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công nghệ. Họ coi phát triển kinh tế là quá trình mở rộng về lượng và cải thiện về chất của các thành phần nêu trên của nền kinh tế. Định hướng theo kết quả hay mục tiêu là đặc điểm cơ bản của cách tiếp cận này. Mục tiêu chính sách của phương pháp tiếp cận thiết lập bộ phận là lấy phát triển và mở rộng khu vực kinh tế thực (khu vực sản xuất) như tổng sản lượng, công ăn việc làm, cơ cấu kinh tế là mục tiêu hàng đầu trong hệ thống chính sách. Họ coi trọng và nhấn mạnh vào các biện pháp chính sách dài hạn được cụ thể hoá bằng các kế hoạch hàng năm nhằm hướng tới mục tiêu đã định. Theo họ, chính phủ cần đóng vai trò tích cực và hỗ trợ. Các chính sách kinh tế cần định hướng vào phát triển các ngành kinh tế cụ thể của nền kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu đã định, bao gồm chính sách phát triển nông nghiệp, chính sách phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ đã lựa


chọn, chính sách thị trường hoá các khu vực kinh tế tự cung, tự cấp. Hơn nữa, họ cũng cho rằng, để thị trường hoá nền kinh tế thì tự do hoá là điều kiện cần nhưng chưa đủ bởi ở các nước đang phát triển, kinh tế thị trường sẽ không tự nó phát triển mà nhà nước phải chủ động thiết kế và đưa cơ chế thị trường vào áp dụng [19, tr. 67]. Nhà nước phải thực hiện các chính sách và biện pháp phù hợp nhằm thiết lập các thể chế, cơ chế cần thiết với kinh tế thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, việc giải quyết các vấn đề kinh tế ở các nước đang phát triển có thể có nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận. Nhưng rõ ràng, một giải pháp hợp lý phải được xây dựng dựa trên sự phối hợp của các cách tiếp cận với nhau và trên hết vẫn phải đạt được các yêu cầu về ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dựng và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, thực hiện tự do hoá để cho kinh tế thị trường phát triển.

Thứ ba, lý thuyết về lợi thế so sánh – cơ sở của chính sách thương mại quốc tế

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 5

Thực tế cho thấy, lý thuyết về lợi thế so sánh (“Thuyết thương mại cũ”) đến nay vẫn được coi là cơ sở nền tảng để xây dựng chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia. Dựa trên quan điểm cho rằng các quốc gia khác nhau về năng suất của các ngành, về các nguồn lực (vốn, lao động, v.v…), các nhà kinh tế học đã đề xuất mô hình chuyên môn hoá sản phẩm dựa vào ưu thế của tự nhiên và lao động (mô hình David Ricardo) và chuyên môn hoá và trao đổi dựa trên sự dồi dào của các yếu tố sản xuất (mô hình Heckscher - Ohlin). D. Ricardo dựa trên quan điểm sự khác biệt về năng suất lao động do sự khác biệt về công nghệ đã chứng minh rằng thương mại giữa hai quốc gia có thể đem lại lợi ích cho cả hai nếu như mỗi quốc gia tập trung sản xuất và xuất khẩu mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh. Xuất phát từ việc nhấn mạnh về sự khác biệt nguồn lực (lao động, vốn, đất đai) giữa các quốc gia, Heckscher và Ohlin đã đưa ra định lý: Một quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia đó dồi dào một cách tương đối [98].


Mặc dù còn một số điểm hạn chế nhưng lý thuyết về lợi thế so sánh vẫn được coi là cơ sở nền tảng để xây dựng chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia hiện nay. Bất kỳ quốc gia nào cũng có ít nhất một lợi thế so sánh, bỏ qua một lợi thế so sánh cũng đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, vấn đề là phải xác định được những ngành, lĩnh vực lợi thế so sánh để khai thác và phát huy. Nhà nước cần phát huy vai trò quan trọng của mình đối với vấn đề này. Những ngành có lợi thế so sánh cũng cần được hỗ trợ từ phía nhà nước. Trong thực tế, các nước thường chọn biện pháp đánh thuế nhập khẩu, hoặc trợ cấp xuất khẩu, hoặc tham gia các hiệp định, các khối thương mại tự do. Điều đó sẽ cho phép bảo vệ và tối đa hóa lợi ích quốc gia hơn là việc để thị trường tự do hoàn toàn. Ngoài ra, chính sách của nhà nước cũng cần hướng tới việc giảm bớt các loại chi phí giao dịch, mở rộng thị trường khu vực nhằm khai thác lợi thế về khoảng cách địa lý, giảm chi phí vận chuyển. Ngày nay, khi khoa học - công nghệ ngày càng phát triển, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng được đẩy mạnh thì những lợi thế so sánh tĩnh của các nước sẽ bị giảm thiểu và mất dần ý nghĩa. Do vậy, các nước cần tranh thủ khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh tĩnh cho phát triển trước khi chúng bị mất đi. Đồng thời, cần có chính sách nhằm thúc đẩy sự hình thành lợi thế so sánh mới, lợi thế còn ở dạng tiềm năng.

Ngoài ra, xuất phát từ nhận định rằng, mặc dù “thuyết thương mại cũ” đã góp phần giải thích rất nhiều cơ cấu thương mại toàn cầu nhưng vẫn còn một số hiện tượng quan trọng mà nó không giải thích được, ví dụ như khối lượng thương mại giữa Pháp và Đức, giữa Mỹ và Canađa rất cao, dù hai nước khá giống nhau về tài nguyên, về khí hậu hay hiện tượng hàng hóa mà các nước phát triển buôn bán với nhau thường là cùng một sản phẩm (như Thuỵ Điển xuất khẩu xe Volvo sang Đức trong khi Đức xuất khẩu xe BMW sang Thuỵ Điển) chứ không phải luôn luôn xuất khẩu sản phẩm này, nhập khẩu sản phẩm khác, sự ra đời của “Thuyết thương mại mới” đã có vai trò rất quan trọng trong việc giải


thích về hoạt động thương mại quốc tế và cũng đưa ra những gợi ý về mặt chính sách cho các nước. Krugman đã chứng minh “thương mại nội ngành” hoàn toàn có thể là hậu quả của sự đa dạng về chủng loại sản phẩm và đặc tính sản xuất. Ông cho rằng, một số ngành công nghiệp có đặc tính mà kinh tế học gọi là “tính tiết kiệm do quy mô” (economies of scale): số lượng sản xuất càng cao thì giá phí bình quân càng thấp. Rất nhiều loại sản phẩm có đặc tính này, quốc gia nào cũng có một số sản phẩm như vậy. Đặc tính “tiết kiệm do quy mô” sẽ dẫn đến khuynh hướng tập trung hóa các hoạt động kinh tế [98]. Khi mới xuất hiện, “thuyết thương mại mới” thường được coi là một lý do để nhà nước can thiệp bảo hộ những ngành công nghiệp có tính tiết kiệm do quy mô. Krugman tin rằng, về lý thuyết, bảo hộ có thể có ích. Lý thuyết về các yếu tố chuyên biệt cũng gợi ý rằng, nhà nước cần bù đắp thiệt hại cho những ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh do nhập khẩu sẽ tốt hơn là cản trở thương mại.

Như vậy, theo các lý thuyết về thương mại quốc tế thì bức tranh thương mại thế giới được định đoạt bởi những yếu tố như tài nguyên và khí hậu (như trong thuyết thương mại cũ), nhưng thêm vào đó là rất nhiều những chuyên biệt hóa căn cứ trên tính tiết kiệm do quy mô, như thuyết thương mại mới. Đó là lý do tại sao khối lượng thương mại toàn cầu trên thực tế rất lớn, nhất là giữa những nước khá giống nhau, hơn là khối lượng mà thuyết thương mại “cũ” (chỉ căn cứ trên sự khác biệt tài nguyên và khí hậu) tiên đoán.

Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, một trong những vấn đề nổi bật là vai trò của nhà nước có chủ quyền trong việc điều hành nền kinh tế và vị trí của họ trong mối quan hệ với các nước khác cũng như các thể chế quốc tế. Mặc dù còn những quan điểm chưa đồng nhất nhưng về cơ bản các trường phái lý thuyết đều thống nhất rằng, nhà nước ở các quốc gia có chủ quyền vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng, không chỉ định hướng mà còn can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp tạo những điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Nhà nước xác định mục tiêu phát triển rõ ràng, nhà nước thực hiện hức


năng điều tiết phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế và tập trung những nguồn lực xã hội có hạn để đầu tư vào những ngành trọng yếu. Đồng thời, nhà nước cũng là người quyết định mức độ tham gia vào toàn cầu hoá và tự do hoá. Nhà nước không thể không mở cửa, không hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nhà nước cần giành một mức độ tự do hoá cao hơn cho các lực lượng thị trường và tăng cường tính dân chủ, minh bạch để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các nhóm lợi ích trong xã hội. Đi ngược lại những xu thế đó, nền kinh tế có thể sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, không phát triển được, mức độ phụ thuộc có nguy cơ gia tăng và nền độc lập có thể bị đe doạ.

Thực tiễn đã chứng minh, hầu hết những nước tiến hành cải cách, mở cửa, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nhà nước có chính sách đẩy mạnh phát triển giáo dục, nâng cao năng lực khoa học – công nghệ, đều là những nước giành được nhiều cơ hội và đã đạt được những thành tựu kinh tế – xã hội quan trọng, vượt qua được những thách thức và hạn chế được tác động tiêu cực của xu thế tự do hoá và toàn cầu hoá. Trên nền tảng phát triển kinh tế – xã hội, các nước này cũng giữ vững được nền độc lập, đồng thời vai trò của nhà nước cũng được củng cố và nâng cao. Ngược lại, những nước do dự hoặc không tiến hành cải cách và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã không có điều kiện thu hút nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, tri thức quản lý tiên tiến... đều có nguy cơ rơi vào trạng thái trì trệ, khủng hoảng về kinh tế – xã hội.

1.2.2. Vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở các nước đang phát triển

Trong lịch sử phát triển của nhiều nước, CNH, HĐH đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Với tư cách là một phương thức phát triển, công nghiệp hoá được khởi đầu từ châu Âu, sau đó lan tới Bắc Mỹ, Nhật Bản với nhịp độ nhanh chóng. Sang thế kỷ XX, công nghiệp hoá ngày càng trở nên phổ biến và là con đường để đưa các nước đang phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Với công nghiệp hoá, những tiến bộ khoa học - công


nghệ đã giúp cải biến toàn bộ lực lượng sản xuất, tạo ra một nền công nghiệp mới có thể sản xuất các máy công cụ, những loại sản phẩm tiêu dùng đại trà, những dây chuyền sản xuất liên tục và những nhà máy khổng lồ. Chính công nghệ mới trong sản xuất đã tạo tiền đề cho việc chuyển giao nhiều chức năng lao động của con người cho máy móc, góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm bớt chi phí, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Điều đó khẳng định, cách mạng khoa học – công nghệ là một phương tiện hiện thực có thể giúp các nước kém phát triển gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá để tăng tốc, khắc phục tình trạng tụt hậu và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển đi trước.

Vai trò to lớn của CNH, HĐH biểu hiện ở chính kết quả của nó, đó là sự chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng những công nghệ và phương pháp hiện đại. Thực hiện thành công CNH, HĐH sẽ giúp các nước đang phát triển tạo ra một sức mạnh kinh tế, mở ra sự biến đổi kinh tế – xã hội đất nước trên nhiều phương diện: i) Thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường; ii) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng liên kết kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, hiệu quả; iii) Tạo thêm nhiều việc làm mới, gia tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; iv) Tạo thế và lực để tham gia có hiệu quả vào quá trình phân công lao động quốc tế.

Trong nửa cuối thế kỷ XX, một số quốc gia và vùng lãnh thổ do biết phát huy các tiềm năng và lợi thế của mình tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế để tiến hành CNH, HĐH nên đã thành công, rút ngắn khoảng cách tụt hậu với các nước phát triển và gia nhập hàng ngũ NIEs như Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo... Bên cạnh đó, còn có một số nước đang cố gắng vươn lên tiến tới gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp hoá mới. Tuy nhiên, số đông các nước đang phát triển vẫn gặp khó khăn trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá và do vậy nền kinh tế vẫn trong tình trạng thấp kém, lạc hậu.


Thực tế đó cho thấy, CNH, HĐH ở các nước đang phát triển là một quá trình phức tạp, với sự đa dạng về mô hình và cách thức tiến hành bắt ngưồn từ những khác biệt về điều kiện và môi trường. Trong lịch sử phát triển của một số nước, CNH, HĐH là một quá trình tự phát bắt nguồn từ động cơ lợi nhuận của các chủ thể kinh tế. Mặc dù cơ chế thị trường được coi là cơ chế phân bổ sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhưng trong thực tế, xuất phát từ động cơ lợi nhuận nên có hiện tượng các nhà đầu tư đổ xô vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, đến một mức độ nào đó sẽ xảy ra hiện tượng bão hoà, thậm chí là khủng hoảng và hậu quả tiếp theo sẽ là làm lãng phí các nguồn lực xã hội. Đối với nhiều nước khác, CNH, HĐH không phải là một quá trình tự phát, mà là một quá trình có định hướng trong một tầm nhìn bao quát, lâu dài và có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước để hướng tới mục tiêu đã lựa chọn.

Hiện nay, hầu hết các nước đều xây dựng và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của quá trình CNH, HĐH. Vấn đề quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp là khả năng tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay ở thị trường nội địa. Do vậy, một câu hỏi lớn đặt ra với các nước đang phát triển là bằng cách nào để các nhà sản xuất, cho dù là doanh nghiệp hay quốc gia, tham gia được vào nền kinh tế toàn cầu, tận dụng có hiệu quả những cơ hội mà toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cũng như vượt qua được những áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện thiếu hụt các nguồn lực cần thiết, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn yếu thì đòi hỏi các nước này phải có định hướng mục tiêu và cơ chế huy động, phối hợp sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực một cách tốt nhất để tạo ra hiệu quả cao, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Tất cả những vấn đề khó khăn phức tạp đó thuộc về vai trò của nhà nước.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/11/2022