Các Chính Sách, Giải Pháp Trong Cnh, Hđh


bảo cho những nhà sản xuất có lợi hơn khi xuất khẩu sản phẩm. Như vậy, nguồn động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp đã có sự thay đổi căn bản. Thị trường nước ngoài được coi là động lực cho sự phát triển. Bên cạnh huy động nguồn nội lực, Đài Loan coi trọng các chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là các nguồn lực về vốn, công nghệ cho đầu tư phát triển.

2.2.1.3. Các chính sách, giải pháp trong CNH, HĐH

a. Chính sách tự do hoá kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô

Chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đã thực thi chính sách tự do hoá kinh tế, phát triển kinh tế thị trường nhằm huy động các nguồn lực cho công nghiệp hoá thông qua các biện pháp như cải cách chế độ tỷ giá, thực hiện chính sách thuế ưu đãi nhằm khuyến khích tư nhân trong và ngoài nước đầu tư, từng bước nới lỏng hoạt động kiểm soát xuất nhập khẩu tiến tới chính sách tự do mậu dịch...

Trong thực hiện chiến lược mới, mặc dù theo mục tiêu gia tăng xuất khẩu nhưng nhà nước Đài Loan vẫn kiên trì phương châm “phát triển trong ổn định”. Do vậy, nhiều biện pháp đã được áp dụng để thực hiện cân bằng ngân sách, ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện gia tăng đầu tư xây dựng cơ bản. Chính phủ Đài Loan cũng rất coi trọng việc kiểm soát và ngăn chặn tình trạng lạm phát. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất trong số những giải pháp nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô để khuyến khích đầu tư phát triển. Khi xuất hiện lạm phát nhà nước đều áp dụng những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, ví dụ như để chống lại tình trạng lạm phát đầu những năm 1970, chính phủ đã thực hiện thắt chặt tiền tệ bằng nâng lãi suất ngân hàng, đồng thời điều chỉnh giá cả hàng hoá và lao động trong phạm vi cho phép. Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống, lạm phát đã bị chặn đứng.

Thực tế, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô đã tạo điều kiện gia tăng nguồn vốn, nhất là vốn của khu vực tư nhân cho đầu tư phát triển.


b. Chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược mới, nhà nước Đài Loan xác định công nghiệp là ngành chủ đạo, đặc biệt là các ngành hướng về xuất khẩu, còn nông nghiệp và dịch vụ sẽ đóng vai trò hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp. Chính quyền Đài Loan đã đề ra các chính sách nhằm điều chỉnh cơ cấu ngành cũng như cơ cấu nội bộ ngành để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

- Với công nghiệp, những năm 1960, nhà nước Đài Loan khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, quy mô nhỏ và kỹ thuật không đòi hỏi cao, chủ yếu là công nghiệp nhẹ và lắp ráp. Những ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển bao gồm dệt, chế biến thực phẩm, nhựa, đồ điện gia đình...

Đầu những năm 1970, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, công nghiệp của Đài Loan đã bị rơi vào tình trạng không ổn định. Để cải thiện cơ cấu công nghiệp, chính quyền Đài Loan chuyển hướng khuyến khích phát triển công nghiệp có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao để gia tăng giá trị, đồng thời phát triển một số ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất như sản xuất gang thép, điện lực, lọc dầu... nhằm sản xuất nguyên liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc và thiết bị thay cho nhập khẩu.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 10

Từ cuối những năm 1970, do giá nhân công tăng lên, những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đã mất dần lợi thế và gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của một số quốc gia đang phát triển trong khu vực, chính phủ Đài Loan đã chuyển hướng ưu tiên phát triển các loại hình công nghiệp công nghệ cao, sản phẩm có giá trị gia tăng lớn: công nghiệp sản xuất các sản phẩm cơ giới, linh kiện xe hơi và điện cơ, công nghiệp điện tử thông tin.

- Với khu vực dịch vụ, chính quyền Đài Loan khuyến khích phát triển những ngành dịch vụ phục vụ sản xuất như vận tải, thông tin, dịch vụ tài chính, tiền tệ... nhằm điều chỉnh cơ cấu dịch vụ theo hướng hiện đại hoá. Còn với nông


nghiệp, chính sách của nhà nước tập trung phát triển một số loại sản phẩm cây trồng, vật nuôi có năng suất cao để phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu.

c. Chính sách huy động nguồn lực tài chính cho công nghiệp hoá

Trong nội dung chiến lược mới, chính quyền Đài Loan xác định khu vực kinh tế tư nhân là xương sống của nền kinh tế và là động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước vẫn không bị xem nhẹ trong cung cấp các dịch vụ công cộng và hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân. Đây chính là cơ sở để chính phủ Đài Loan ban hành các chính sách nhằm huy động nguồn lực tài chính cho công nghiệp hoá:

- Đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước nhằm tập trung chi cho công nghiệp hoá

Chính phủ Đài Loan rất coi trọng việc đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước với việc hạn chế các khoản chi tiêu của nhà nước, đặc biệt là các khoản chi thường xuyên. Năm 1960, chi thường xuyên của nhà nước chỉ chiếm 19% GDP [90, tr. 58]. Theo các số liệu thống kê, từ sau 1961, ngân sách nhà nước ở Đài Loan đảm bảo cân bằng và có thặng dư. Điều đó cho phép chính phủ Đài Loan tập trung vốn cho công nghiệp hoá, đặc biệt cho xây dựng cơ bản.

Về cơ bản, các khoản đầu tư của nhà nước đều nhằm mục đích chung là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân. Với những ngành công nghiệp mới đòi hỏi vốn lớn, nhiều rủi ro, nhà nước có thể đầu tư toàn bộ bằng nguồn vốn từ ngân sách hoặc góp cổ phần. Khi những ngành này phát triển, hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì chính phủ dần bán lại cổ phần cho tư nhân để tập trung cho các lĩnh vực khác. Điều đáng chú ý là khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào một số ngành then chốt như công nghiệp khai khoáng, giao thông vận tải, năng lượng. Từ những năm 1970, các doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp nặng hiện đại như đóng tàu, sắt thép..., công nghiệp quốc phòng và dịch vụ công cộng.


- Chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân

Để biến tiết kiệm thành các khoản đầu tư có hiệu quả vào sản xuất, chính phủ Đài Loan đã kiên trì chính sách phát triển công nghiệp và có những cam kết mạnh mẽ đối với các mục tiêu phát triển đã khiến các nhà đầu tư tin tưởng vào sự nhất quán trong các chính sách kinh tế của nhà nước. Các chính sách cụ thể:

+ Chính quyền Đài Loan đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý ổn định để khuyến khích đầu tư tư nhân. Tiêu biểu như các điều luật: “Điều lệ chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp tư nhân”, “Quy định về khen thưởng đầu tư”. Đồng thời, nhằm khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp có khả năng xuất khẩu, chính phủ đã nới lỏng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu như cho phép tự do nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu và có chính sách miễn hoặc giảm thuế đối với việc nhập khẩu các sản phẩm cần thiết phục vụ sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Nhà nước còn cho phép các công ty tư nhân được tự do xuất khẩu, được hưởng chế độ miễn và giảm thuế đối với một số sản phẩm xuất khẩu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Đài Loan trên thị trường quốc tế.

+ Để huy động tối đa nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, chính phủ Đài Loan khuyến khích mô hình cơ cấu công nghiệp hai tầng với tầng trên là các xí nghiệp quy mô lớn, được trang bị kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại có nhiệm vụ đóng vai trò chủ lực đi đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tầng dưới là các xí nghiệp quy mô nhỏ hoặc những xưởng nhỏ, thậm chí cả những hộ gia đình nằm rải rác khắp nơi, hoạt động như các vệ tinh có nhiệm vụ lắp ráp hoặc gia công những bộ phận rời.

+ Nhà nước còn thực hiện những chính sách trợ cấp, chính sách tín dụng lãi suất thấp. Với Quy chế khuyến khích đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân được hưởng nhiều ưu đãi, đặc biệt là về thuế. Theo quy chế này, các doanh nghiệp được miễn thuế 5 năm đối với các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4 năm cho


các xí nghiệp đổi mới thiết bị khi bắt đầu bán sản phẩm, tổng mức thuế thu không vượt quá 25% mức doanh lợi cả năm. Năm 1980, Quy chế khuyến khích đầu tư đã được sửa đổi nhằm khuyến khích các ngành sử dụng nhiều vốn và công nghệ cao. Đài Loan miễn thuế nhập khẩu máy móc dành cho việc đổi mới thiết bị trong các xí nghiệp và hàng loạt các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế khác. Từ 1964 đến 1977, tổng mức thuế giảm bình quân 22% /năm [66, tr. 108]. Chính sách ưu đãi về thuế đã góp phần kích thích đầu tư và đổi mới thiết bị.

Nhìn chung, những chính sách ưu đãi và khuyến khích của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển. Những năm 1970, các doanh nghiệp tư nhân trong ngành công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, thiết bị điện phát triển mạnh. Đến năm 1980, giá trị sản lượng của doanh nghiệp tư nhân là 6,72 tỷ USD, chiếm 80% tổng giá trị sản phẩm quốc dân và trở thành bộ phận chủ yếu của nền kinh tế Đài Loan [41, tr. 151].

Nét đặc trưng của khu vực kinh tế tư nhân ở Đài Loan là phần lớn các doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ. Ngay từ giai đoạn đầu công nghiệp hoá, chính phủ Đài Loan nhấn mạnh vai trò quan trọng của các DNVVN bởi loại hình doanh nghiệp này có thể khai thác tối đa nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư, chúng có cơ chế linh hoạt, nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Thực tế, nhà nước đã có chính sách tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về thuế để bất cứ người Đài Loan nào có khả năng đều có thể thành lập công ty riêng của mình. Tính đến năm 1982, các DNVVN chiếm 99,5% trong tổng số doanh nghiệp và chiếm 70% số lao động có việc làm, chiếm 55% giá trị tăng thêm và 65% tổng kim ngạch xuất khẩu [41, tr. 152].

- Tăng cường huy động nguồn vốn từ các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính

+ Để tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế cho đầu tư phát triển, chính phủ Đài Loan đã thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Nhà nước còn


quy định miễn thuế thu nhập đối với cá nhân có khoản thu nhập từ lãi suất tiền gửi ngân hàng với thời hạn gửi hai năm. Bên cạnh đó, do tâm lý của người dân Đài Loan là tiết kiệm trong chi tiêu nên tỷ lệ tiết kiệm cá nhân ở Đài Loan ở mức cao. Từ 1952 đến 1980, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm trong dân cư ở Đài Loan tăng gấp 7 lần, từ 3% lên 21% thu nhập sau thuế.

+ Nhà nước cho phép và tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức tài chính phi ngân hàng như các công ty bảo hiểm, các công ty đầu tư uỷ thác, các công ty tài chính ngắn hạn... thực hiện chức năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đầu những năm 1960, Đài Loan bắt đầu xây dựng Sở giao dịch chứng khoán với vai trò là trung tâm giao dịch cổ phiếu. Cuối những năm 1970, Đài Loan sửa đổi điều lệ quản lý ngoại hối và xây dựng “Trung tâm giao dịch ngoại hối”. Cùng thời gian đó, thị trường tiền tệ chính thức ra đời đã góp phần cung ứng vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Chính sách thu hút nguồn vốn nước ngoài

Bên cạnh nguồn tích luỹ từ trong nước, Đài Loan cũng chú ý khai thác nguồn vốn từ nước ngoài bao gồm vốn viện trợ, vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Để thu hút nguồn vốn FDI, nhà nước Đài Loan không ngừng cải thiện môi trường đầu tư thông qua việc ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ về đầu tư quốc tế như các luật thuế, luật hải quan, luật quản lý ngoại hối... Năm 1964, chính quyền Đài Loan đã xây dựng các khu chế xuất nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước còn có các chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư của tư bản nước ngoài như đảm bảo đặc quyền và ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, thuế hàng hoá, thuế tiêu thụ cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài giống như cho các xí nghiệp của người Đài Loan.

Với những biện pháp tích cực, tỷ lệ tích luỹ ở Đài Loan đã đạt 32,1% GDP trung bình hàng năm trong giai đoạn 1971 - 1980. Tốc độ tăng vốn của Đài Loan trong thời kỳ 1960 - 1980 bình quân là 14,6% [57, tr. 130].


Cùng với các chính sách và biện pháp huy động vốn cho công nghiệp hoá, Đài Loan cũng có chính sách và biện pháp phân bổ sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Trong các kế hoạch phát triển kinh tế, nhà nước công bố công khai nguồn vốn huy động được (từ tích luỹ trong nước, vốn ODA, vốn vay nước ngoài) để phân bổ cho các dự án đầu tư. Vấn đề sử dụng vốn hiệu quả trong các xí nghiệp quốc doanh luôn được coi trọng. Mặc dù các doanh nghiệp này thường tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn có tính mở đường, mức độ mạo hiểm cao nhưng nhà nước không có chế độ trợ cấp, bao cấp mà các doanh nghiệp này phải đảm bảo tự bù đắp chi phí. Với nguồn vốn đầu tư của tư nhân trong nước và nguồn vốn FDI, nhà nước luôn có sự định hướng nhu cầu đầu tư thông qua các biện pháp khuyến khích, thực hiện chế độ ưu đãi về tài chính, thuế quan đối với những ngành ưu tiên, đặc biệt cho khu vực xuất khẩu.

d. Chính sách phát triển khoa học - công nghệ

Trong quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chính phủ Đài Loan thực hiện chính sách kiên trì theo đuổi kỹ năng, công nghệ và tri thức tiên tiến để giúp các doanh nghiệp xâm nhập thị trường sản phẩm mới và hiện đại hoá quá trình sản xuất. Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ Đài Loan đã xây dựng các “hệ thống sáng tạo” cấp quốc gia để tiếp thu và nâng cao năng lực công nghệ cũng như khả năng tiếp cận, điều chỉnh, và hoàn thiện các công nghệ nhập khẩu. Chính phủ Đài Loan còn sử dụng các chính sách buộc các doanh nghiệp nội địa phải nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Cụ thể:

- Chính sách nhập khẩu công nghệ: Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đã nới rộng những hạn chế đối với nhập khẩu, cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc, thiết bị để hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mới phục vụ xuất khẩu. Trong những năm 1960, chính phủ Đài Loan khuyến khích nhập khẩu các dây chuyền sản xuất đồng bộ nhằm phát triển các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, đòi hỏi


trình độ tay nghề không cao và cần ít vốn đầu tư. Dần dần, Đài Loan triển khai nhập khẩu các công nghệ cao để phát triển các ngành đòi hỏi vốn và kỹ thuật nhiều hơn. Do vậy, công nghệ sản xuất của các ngành luyện kim, đóng tàu, máy điện, viễn thông... từng bước được nâng cấp.

- Để tạo điều kiện tiếp nhận chuyển giao công nghệ thông qua FDI, nhà nước Đài Loan áp dụng chế độ thuế ưu đãi với các công ty nước ngoài đầu tư vào những ngành kỹ thuật cao. Để thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và sử dụng hiệu quả công nghệ chuyển giao gắn với sự hình thành các ngành công nghiệp kỹ thuật cao là xây dựng các khu chế xuất với hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và phát triển nguồn nhân lực khoa học - kỹ thuật. Thực tế, xét về chuyển giao công nghệ, Đài Loan là một trong những quốc gia và vùng lãnh thổ được hưởng lợi rất nhiều từ FDI và các hợp đồng phụ với Nhật Bản. Hầu hết các dự án FDI của Nhật Bản đều nằm trong khu vực sản xuất nên đã có những hiệu ứng dây chuyền và có tác dụng lôi kéo sự phát triển của các ngành công nghiệp Đài Loan. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, Đài Loan đã thành công trong việc trở thành một khâu trong dây chuyền sản xuất của các công ty siêu quốc gia.

- Chú trọng nâng cao năng lực khoa học - công nghệ quốc gia. Trong những năm 1980, ngân sách đầu tư cho khoa học - công nghệ trung bình tăng 20% hàng năm [68]. Hầu hết các hoạt động nghiên cứu triển khai công nghệ đều được nhà nước hỗ trợ về kinh phí và ưu đãi về tài chính - tín dụng. Ở Đài Loan, khoảng 90% kinh phí hoạt động hàng năm của các cơ sở nghiên cứu phi chính phủ đều do nhà nước cấp.

Nhà nước Đài Loan rất chú trọng khuyến khích tư nhân và có chính sách phối hợp, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân đầu tư R&D. Các dự án R&D trong ngành công nghiệp được chính phủ giao cho Viện nghiên cứu công nghệ công nghiệp (ITRI) quản lý với chức năng chỉ đạo R&D những kỹ thuật theo nội dung các dự án được ký với cơ quan cấp vốn là Bộ kinh tế Đài Loan. Chính quyền Đài

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí