(Khóa VIII) khẳng định: Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài có khả năng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học hoặc hợp tác với các cơ sở đào tạo trong nước; các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể vào Việt Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tài chính theo quy định của Nhà nước.
Tám là, chủ trương, chính sách đẩy mạnh xây dựng ĐNTT dân tộc thiểu số. Chủ trương về xây dựng ĐNTT dân tộc thiểu số được thể hiện ờ các nghị quyết Đại hội Đảng, các nghị quyết Trung ương với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể: về định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT, về công tác dân tộc; công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức,... mà chưa có văn bản riêng về công tác xay dựng ĐNTT dân tộc thiểu số. Các chính sách chung đã có tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc đào tạo và hình thành ĐNTT dân tộc thiểu số, song còn phân tán, ―chưa đủ mạnh‖, cả về tạo nguồn, đào tạo và sử dụng, phát huy trình độ, năng lực sáng tạo.
3.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, IX của Đảng, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật Khoa học - Công nghệ, xác định vị trí, vai trò quan trọng của KH-CN, thu hút, trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện để trí thức sáng tạo và cống hiến; có chính sách thu hút trí thức, các chuyên gia giỏi ở trong và ngoài nước, trí thức Việt kiều, khai thác tiềm năng trí tuệ và sự đóng góp của trí thức trên cơ sở nâng cao trách nhiệm tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các chính sách, chương trình, dự án và đề án có tính chất phức tạp, ưu tiên, trọng điểm và đa ngành về phát triển KT-XH, KH-CN và môi trường.
3.2.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức
Nghị quyết HNTƯ 2 (Khóa VIII) về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 là dấu mốc quan trọng thể hiện sự phát triển trong nhận thức, đường lối chiến
lược của Đảng và Nhà nước về phát triển KH-CN, GD-ĐT thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 9
- Quan Điểm, Chủ Trương Của Đảng Vẻ Xây Dựng Đội Ngũ Trí Thức Trong Những Năm Đầu Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa (1996 -2008)
- Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 11
- Chủ Trương Của Đảng, Nhà Nước Về Đổi Mới Chính Sách Đối Với Trí Thức Từng Bước Được Cụ Thể Hoá, Pháp Chế Hóa
- Công Tác Vận Động Trí Thức Của Đảng, Nhà Nước Và Các Đoàn Thể Được Chú Trọng
- Vấn Đề Sử Dụng Đội Ngũ Trí Thức Phục Vụ Sự Nghiệp Cnh – Hđh Đất Nước
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
Chính phủ đã xác định phương hướng của chiến lược phát triển GD-ĐT đến năm 2020 và một số giải pháp chủ yếu nhằm nang cao chất lượng toàn diện các bậc- học từ tiểu học đến sau đại học. Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho GD-ĐT để đạt được 15% tổng chi ngân sách vào năm 2000. Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho sự nghiệp GD-ĐT. Trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển đào tạo đại học, đảm bảo có được nhiều nhân tài cho đất nước trong thế kỷ XXI. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết đã tạo bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển GD-ĐT. Sau khi Nghị quyết Trung ương 2 được ban hành, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 12 - CT/TW ngày 10-1-1997 chỉ đạo việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, trước hết trong các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ đảng viên, giáo viên.
Phương pháp GD-ĐT đã được đổi mới mạnh mẽ, từng bước khắc phục lối truyền thụ một chiều; chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy- học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên. Các trường đại học, cao đẳng từng bước gắn với sản xuất, kinh doanh và phục vụ xã hội. Tăng cường đào tạo kỹ năng thực hành kết hợp với tư duy sáng tạo, bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.
Để mở rộng cơ hội học tập cho các đối tượng có nhu cầu, quy chế đào tạo nghiên cứu sinh có sự thay đổi phù hợp. Trước năm 2000, quy chế quy định người đi học nghiên cứu sinh không quá 45 tuổi. Quy chế mới ban hành kèm theo Quyết định 18/QĐ - BGD&ĐT ngày 8-6-2000 không hạn chế tuổi đào tạo tiến sỹ, cho phép các đối tượng có năng lực tiếp tục học tập ở trình độ cao theo phương châm học tập suốt đời.
Nền giáo dục nước nhà đã có bước phát triển mới, chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến bước đầu nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém. Để khắc phục nhũng yếu kém trong GD-ĐTV Đại hội IX nêu nhiệm vụ trước mắt là giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc: khắc phục khuynh hướng ―thương mại hoá‖ giáo dục, ngăn chặn những tiêu cực; Chủ trương huy động kinh phí của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước cho GD-ĐT; Phát huy trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác mở trường lớp đào tạo, lập các cơ sở nghiên cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu KH-CN hiện đại; Hình thành một số cơ sở quốc tế về khoa học tự nhiên và công nghệ. Có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ KH-CN, nhất là cán bộ trẻ được đi bồi dưỡng và trao đổi khoa học ở nước ngoài. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, quản lý chặt chẽ việc cấp văn bằng.
Hội nghị Trung ương 6 (Khóa IX) nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng ĐNTT đồng bộ, hợp lý trên các lĩnh vực KH-CN, văn hóa - văn nghệ, quản lý kinh tế, quản lý xã hội,... Đảng và Nhà nước đã thực hiện những giải pháp nhằm đổi mới chính sách đào tạo và bồi dưỡng, tạo ra bước phát triển quan trọng của ĐNTT.
GD-ĐT có những bước chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là đào tạo đại học chất lượng cao và đào tạo sau đại học, phát triển ĐNTT trên các lĩnh vực.
ĐNTT ngành giáo dục có sự trưởng thành nhanh chóng, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Lực lượng trí thức tập trung trong lĩnh vực GD-ĐT cả về số lượng và trình độ, chiếm trên 1/3 ĐNTT cả nước. Số tiến sỹ khoa học trong lĩnh vực GD-ĐT chiếm 42,63%, tiến sỹ chiếm 37,9%, thạc sỹ chiếm 42,9% tổng số đội ngũ này hoạt động trong lĩnh vực GD-ĐT. Số có trình độ cao đẳng cũng rất cao (67,52%) [129].
Năm 2001, cả nước có 74 trường đại học (không kể các trường quân đội và công an); chưa kể 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, 16 trường đại học dân lập, 3 trường đại học dự bị dân tộc. Đội ngũ giảng viên đại học khá hùng hậu: 24.362 người, trong đó giáo sư và phó giáo sư là 1.441; tiến sỹ: 4.454; thạc sỹ: 6.596; số giảng viên cao đẳng là 7.843 [160, tr.41]
Với những quan điểm và chủ trương phù hợp, công tác đào tạo ĐNTT đã có nhiều đổi mới, qui mô đào tạo đại học và trên đại học tăng nhanh, hệ thống đào tạo đại học đã được sắp xếp, quy hoạch lại, tăng đáng kể nguồn tài chính và được đa dạng hóa. Những đổi mới trong GD-ĐT đã tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho những người có nguyện vọng học tập nâng cao trình độ học vấn của mình, kết quả đó có tác động tích cực tới sự phát triển của ĐNTT nước ta.
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, sự trưởng thành của ĐNTT ngành GD-ĐT, công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức không ngừng đổi mới và phát triển, ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Kết quả của sự đầu tư đó íà đội ngũ nhân lực có trình độ đại học và trên đại học tăng nhanh.
Trong các năm 1996-2008, quy mô giáo dục đại học không ngừng được mở rộng. Năm học 2004-2005, tổng số sinh viên cao đẳng, đại học là: 1.319.754, trong đó sinh viên tuyển mới là 40.245. Tổng qui mô năm 2005 tăng 1,43 lần so với năm 2001, số sinh viên tuyển mới tãng 1,86 lần. Trung bình, sinh viên cao đẳng, đại học tăng 8,4%/năm.
Đào tạo sau đại học tăng nhanh về quy mô, học viên cao học tăng 51,9%/năm và nghiên cứu sinh tăng 6,1%/năm. Năm 2005, đạt 166,5 sinh viên/vạn dân [180, tr.497].
Nếu như trong suốt 25 năm hòa bình xây dựng đất nước, từ năm 1975 đến năm 2005, nước ta đào tạo được tổng số 8.400 nghiên cứu sinh, 39 nghìn thạc sỹ, thì riêng năm 2005, các cơ sở đào tạo đã tuyển 15.670 học viên cao học và 1.358 nghiên cứu sinh; mở thêm 2 cơ sở đào tạo thạc sỹ và 4 cơ sở đào tạo tiến sỹ. Tổng
số cơ sở đào tạo sau đại học trong cả nước năm 2005 là 155, trong đó có 85 trường đại học và học viện, 70 viện nghiên cứu.
Ngành văn hóa có 3 cơ sở đào tạo tiến sỹ, 6 cơ sở đào tạo thạc sỹ: Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Đại học Sân khấu và điện ảnh Hà Nội, Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh [231].
Các cơ sở đào tạo sau đại học ngày càng đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo để cung cấp cho ngành những cán bộ khoa học có trình độ cao. Công tác đào tạo không chỉ tiến hành trong các trường đại học và các học viện mà được các hội trí thức tham gia.
Trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) là một trung tâm khoa học quốc gia. Trong thời kỳ CNH, HĐH, Trung tâm ngày càng chú trọng đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đào tạo trên đại học. Trung tâm có 13 cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh theo 12 chuyên ngành, trong đó một số cơ sở có đào tạo cao học.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GD-ĐT được tăng cường thông qua các phương thức thu hút đầu tư nước ngoài, các dự án giáo dục; số sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh đi đào tạo ở ngoài nước bằng nhiều nguồn vốn khác nhau; một số trường đào tạo, tổ chức nước ngoài đã hợp tác đầu tư mở cơ sở đào tạo tại Việt Nam.
Cùng với phát triển mạnh sự nghiệp GD-ĐT trong nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài, nhất là những nước có nền giáo dục và KH-CN phát triển, nhằm nắm bắt kịp sự phát triển của KH-CN tiên tiến. Trong đó, ưu tiên dành ngân sách nhà nước thoả đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển (từ nãm 2000, hàng năm Nhà nước dành 100 triệu đôla cho đào tạo sau đại học ở nước
ngoài). Số đu học sinh được đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước tăng. Số học sinh được tuyển để đào tạo ở nước ngoài theo hiệp định khoảng 200 người/năm. Đến năm 2000, có 10.000 người học tập ở nước ngoài [208, tr. 430].
Đến 31-12-2005, số người gửi đi đào tạo nước ngoài là 2.392 người. Trong đó, 726 nghiên cứu sinh, 677 người đi đào tạo thạc sỹ, 178 thực tập sinh, 811 sinh viên đại học. Đã có 532 người đi học nước ngoài kết thúc trở về nươc, trong đó có 42 tiến sỹ, 356 thạc sỹ, 134 thực tập sinh [180, tr. 498].
Trong những năm 1986 - 2008, chúng ta đã huy động nhiều nguồn lực cho công tác đào tạo trí thức: bao gồm kinh phí từ ngân sách nhà nước, các tổ chức và đặc biệt là kinh phí tự túc của các gia đình. Mở rộng cơ hội học tập, nâng cao trình độ KH-CN tại nước ngoài cho học sinh, sinh viên và cán bộ bằng việc khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số ngoại tệ được chuyển ra nước ngoài hàng năm cho mục đích du học tự túc bằng con đường chính thức vào khoảng 120 - 150 triệu USD. Tính bình quân chi phí du học cho mỗi người khoảng l5.000USD/năm. Mỗi năm có khoảng hơn 10.000 du học sinh Việt Nam đang nâng cao tri thức trong cộng đồng giáo dục thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Trên thực tế, số tiền chi tiêu cho du học còn lớn hơn rất nhiều. Bởi vì con số trên còn chưa tính đến những chương trình hỗ trợ du học của Chính phủ, các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể và cả những khoản chuyển tiền không chính thức...
Với mục tiêu quốc gia đến năm 2020 hình thành bộ phận GD-ĐT có chất lượng cao với chương trình, nội dung và phương pháp dạy và học theo chuẩn mực tiên tiến của thế giới, tăng tỷ lệ học sinh được học theo bộ phận này từ 5 lên 10% vào năm 2000 và tăng dần lên 20-25% sau đó, hình thành các trường đại học (hoặc bộ phận trong trường, viện đại học) được thừa nhận đạt chuẩn quốc tế về đào tạo, nghiên cứu.
Trên cơ sở mục tiêu quốc gia, các ngành, địa phương cụ thể hóa theo vùng, với các đặc thù kinh tế, văn hóa, địa lý, lịch sử, dân tộc khác nhau, và theo ngành sản xuất, dịch vụ quản lý. Để khắc phục tình trạng lãng phí ―chất xám‖, các chính sách do Nhà nước ban hành đã tạo điều kiện để Nhà nước, doanh nghiệp và nhà trường kết hợp đề ra mục tiêu trong đào tạo để giải quyết các vấn đề sử dụng nhân lực được đào tạo.
Công tác đào tạo đại học, cao đẳng theo cử tuyển nhằm xây dựng ĐNTT miền núi, người dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện.
Đến năm 2004 đã có 52 tỉnh và 2 đơn vị (Đại học Lâm nghiệp và Bộ Tư lệnh Quân khu II) được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao chỉ tiêu theo chế độ cử tuyển. Từ năm 1999 đến 2004 đã giao 4.960 chỉ tiêu theo kế hoạch, các tỉnh thực hiện được
4.284 chỉ tiêu, đạt 86,37%. Trong 5 năm (2001-2005) có một số tỉnh vượt chỉ tiêu như Cao Bằng (114,935), Bắc Kạn (110,06%), Nghệ An (107,91%); Thanh Hoá (106,95%), Yên Bái (102,29%).
Nhìn chung, tỷ lệ cử tuyển năm sau cao hơn năm trước, từ 3% đến 25%: Năm học 1999 - 2000: tuyển mới 664 sinh viên. Đến năm học 2004 - 2005: tuyển mới 1.235 sinh viên; đã có 46/54 dân tộc có học sinh vào đại học, cao đẳng theo chế độ cử tuyển, còn 8 dân tộc chưa có học sinh vào đại học, cao đẳng theo chế độ cử tuyển (Bru Vân kiều, Rơ Măm, La Hủi Lự, Si La, Cờ Lao, Lô Lô, Ơ Đu).
Nãm 2005, tuyển sinh theo chế độ cử tuyển với số lượng 1.235 sinh viên vào học tại 37 trường đại học, cao đẳng. Số học sinh đào tạo, tốt nghiệp theo chế độ cử tuyển được sắp xếp công tác là 80,74%. Thực hiện chính sách đào tạo theo cử tuyển đã góp phần vào việc tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ ở các vùng dân tộc thiểu số.
Mặc dù vậy, công tác này cũng còn nhiều bất cập. Học sinh các dân tộc thiểu số có dân số đông như Tày, Nùng, Thái, Mường thường chiếm tỷ lệ cao trong việc cử tuyển song cũng tăng không đáng kể. Một số địa phương không tìm ra người và
do vậy không đạt chỉ tiêu đề ra, như Hà Giang đạt 89% chỉ tiêu; Lai Châu đạt 71%, Khánh Hoà đạt 72%, Bình Thuận đạt 53,45%, Bạc Liêu chỉ đạt 49,2%,...
Cùng với đẩy mạnh công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng, đào tạo lại, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ cho ĐNTT được tăng cường. Công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức được thực hiện thường xuyên với nhiều hình thức, thời gian phù hợp với các đối tượng để trí thức thích ứng với thực tế. Trong đó, hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn được đẩy mạnh.
Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho ĐNTT là mốỉ quan tâm thường xuyên của các cơ quan, các hội trí thức. Công tác này được thực hiện dưới 2 hình thức chủ yếu: ngắn hạn, từ một tuần đến dưới 1 năm và dài hạn từ 1 năm trở lên; thực hành thí nghiệm, học tập, bồi dưỡng ở các cơ sở trong nước và ở nước ngoài. Nội dung đào tạo đa dạng từ tin học, quản trị kinh doanh, kế toán, ngoại ngữ,... Chương trình đào tạo linh hoạt, phù hợp với các đối tượng.
Liên hiệp các Hội KH-KT và phần lớn các hội thành viên, các cơ quan thực hiện phương châm "cần gì học nấy" nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của cán bộ, hội viên. Theo thống kê, riêng trong năm 1996, có 23 hội thành viên Liên hiệp các Hội KH-KT đã mở 1.062 lớp học ngắn hạn cho 37,207 học viên, cử 1.068 người đi học đại học, 116 người đi học cao học, 20 người đi thực tạp sinh, 10 người đi làm nghiên cứu sinh ở các cơ sở đào tạo trong nước, 12 đi du học và 63 cán bộ đi thực tập ở nước ngoài [181].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức được Trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia thường xuyên đẩy mạnh. Năm 1997, Trung tâm mở lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho 63 cán bộ quản lý. Có 16 viện, trung tâm mở lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ chuyên ngành. Trung tâm mở 2 lớp vi tính, 170 cán bộ theo học, mở 4 lớp tiếng Anh, cho 60 cán bộ; 58 lượt cán bộ của Trung tâm được cử đi bồi dưỡng, đào tạo ở một số nước trên thế giới [251].