Nhà Nước Xác Định Và Điều Chỉnh Chiến Lược Cnh, Hđh


Nội dung vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở các nước đang phát triển rất rộng, được thể hiện trên nhiều khía cạnh: Nhà nước xây dựng và đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong đó có chiến lược CNH, HĐH; Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ như luật pháp, các biện pháp hành chính, kinh tế để chỉ đạo việc thực hiện chiến lược, duy trì và đảm bảo các quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế; Nhà nước đóng vai trò là người trọng tài đảm bảo cho thị trường hoạt động có hiệu quả thông qua việc xây dựng các quy tắc hoạt động của thị trường, xác định cơ chế buộc các chủ thể kinh doanh cũng như các đơn vị hành chính nhà nước phải chấp hành, tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy tắc đề ra, xây dựng cơ chế xử phạt và tiến hành xử phạt những vi phạm của các chủ thể kinh doanh…; Nhà nước xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức xã hội tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội…

Đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của nhà nước thể hiện rõ nhất trên các nội dung cơ bản sau:

1.2.2.1. Nhà nước xác định và điều chỉnh chiến lược CNH, HĐH

Khái niệm “chiến lược” thường được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian dài. Chiến lược được xem như là một công cụ nhằm tác động đến bản chất và quá trình phát triển của đối tượng, nghĩa là nó phải có tác dụng làm thay đổi, từ những thay đổi về lượng đưa đến thay đổi về chất của hệ thống. Đó là sự thay đổi về mục tiêu, cơ cấu, cơ chế hoạt động của hệ thống. UNIDO cho rằng: “Thông thường, một chiến lược phát triển có thể như bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt những mục tiêu đã định cho một thời kỳ từ 20 - 30 năm; nó hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực; nó cung cấp một “tầm nhìn” của một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán trong các biện pháp tiến hành” [85, tr. 12]. Chiến lược CNH, HĐH là một bản luận cứ có cơ sở khoa học xác định tầm nhìn, định hướng và các giải pháp cơ


bản để thực hiện CNH, HĐH. Xác định chiến lược CNH, HĐH là việc xác định các mục tiêu và biện pháp hành động để từ đó lựa chọn phương án tối ưu trong quá trình thực hiện.

Để đưa ra một chiến lược CNH, HĐH phù hợp, phải xác định được điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai đoạn phát triển; phải xây dựng các thể chế phù hợp để đạt được các mục tiêu phát triển, trong đó nhấn mạnh phải tính đến các khía cạnh vĩ mô và vi mô cũng như các khía cạnh chính trị – xã hội của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì để đạt được các mục tiêu đề ra. Những vấn đề đó thuộc về vai trò của nhà nước.

- Trong nội dung chiến lược CNH, HĐH, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xác định rõ mục tiêu và bước đi của CNH, HĐH. Với mỗi quốc gia, CNH, HĐH có mục tiêu tổng quát nhưng cũng có mục tiêu cho từng giai đoạn cụ thể.

Ngoài mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nội dung chiến lược CNH, HĐH. Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả mặt lượng và mặt chất mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên sự thay đổi của cơ cấu kinh tế cũng phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội. Đồng thời, bước đi trong CNH, HĐH thường gắn với những mục tiêu cụ thể về cơ cấu kinh tế, nhất là về cơ cấu ngành vì đó là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của CNH, HĐH.

Mục tiêu xác lập cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển cần phải căn cứ vào mục tiêu của CNH, HĐH và phải dựa trên điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Một số học giả kinh tế cho rằng, các nước đang phát triển muốn đạt được sự tăng trưởng cao và bền vững cần phải hướng tới một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối gồm tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời cần huy động tối đa những nguồn lực sẵn có trong nước để thực hiện mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trong thực tế, các nước đang phát triển luôn gặp phải những hạn chế về nguồn lực,


nhất là vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ, nên quan điểm tăng trưởng cân đối tỏ ra không phù hợp với nhiều quốc gia. Một số nhà kinh tế học khác như Hirschman, Feldman lại đưa ra quan điểm về “cực tăng trưởng”, tức là các nước nên tập trung cho những ngành, lĩnh vực đầu tư có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Nghĩa là, các nước đang phát triển cần phải tập trung xây dựng và phát triển những ngành kinh tế đầu tàu có ảnh hưởng lan toả đến các ngành và khu vực còn lại của nền kinh tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các mục tiêu về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia trong CNH, HĐH không chỉ thuần túy được nhìn nhận từ góc độ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng quốc gia như cách tiếp cận truyền thống mà cần phải tiếp cận quan điểm hiện đại

– theo nguyên lý chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là phải thông qua việc gia nhập các chuỗi giá trị toàn cầu để thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó chính là vấn đề mới, khác biệt đáng kể với các quá trình công nghiệp hóa trước đây, khi mà sự phân công lao động quốc tế chủ yếu diễn ra qua việc cung cấp sản phẩm chứ chưa hoàn toàn là sự phân công lao động thông qua các chuyên môn hóa chức năng sản xuất theo hệ thống liên kết mạng. Với cách tiếp cận này, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển là phải khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm cách chen chân và tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và thế giới. Thực tế cho thấy, bên cạnh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang khu vực công nghiệp hiện đại như quan niệm trước đây, các nước đi sau cần chú ý là trong điều kiện mới, dưới tác động của khoa học công nghệ hiện đại, khu vực năng suất cao không chỉ là công nghiệp mà cả khu vực dịch vụ dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại. Thậm chí với khu vực nông nghiệp, do áp dụng khoa học – công nghệ hiện đại nên không ít lĩnh vực có thể đem lại giá trị gia tăng cao và khi gắn kết vào trong chuỗi giá trị, nông nghiệp không chỉ là ngành sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp.


Nói một cách khái quát, vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nội dung chiến lược CNH, HĐH là phải chỉ rõ mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế để từ đó xác định cách thức phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả. Sự thay đổi cơ cấu ngành cần phải gắn với từng bước đi trong CNH, HĐH. Cơ cấu ngành phải là một cơ cấu động dựa trên nguyên tắc phát huy có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước. Lợi thế so sánh thay đổi thì cơ cấu ngành cũng thay đổi, chỉ có như vậy mới phù hợp với sự vận động của kinh tế thị trường, mới có khả năng tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời đại để tạo điều kiện đẩy nhanh CNH, HĐH.

- Một nội dung quan trọng khác trong nội dung chiến lược CNH, HĐH là phải xác định rõ phương thức hành động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Nghĩa là phải xác định rõ định hướng chính sách nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình CNH, HĐH. Trong đó, chính sách huy động các nguồn lực cho CNH, HĐH là một trong những trọng tâm hàng đầu thể hiện vai trò của nhà nước. Hiện nay, đa số các nước đang phát triển hiện nay đều trong tình trạng thiếu hụt những nguồn lực cơ bản về vốn, công nghệ, nhân lực cho CNH, HĐH nên để thực hiện các mục tiêu đề ra các nước này cần tạo lập cơ chế và có các chính sách nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì ngoài những nguồn lực sẵn có trong nước, các nước còn có thể huy động các nguồn lực này từ bên ngoài. Việc bổ sung những nhân tố thiếu để kết hợp với những nhân tố sẵn có bên trong nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất trong phát triển là một yêu cầu cấp thiết và cũng là vấn đề có thể thực hiện được. Đồng thời, bên cạnh việc huy động các nguồn lực hiện có thì việc phát triển các nguồn lực còn ở dạng tiềm năng cũng là một yêu cầu cần thiết với các nước đang phát triển. Đó chính là quan điểm cho chính sách huy động tổng lực, cả nội lực và ngoại lực cho CNH, HĐH.

Như vậy, vai trò quan trọng trước tiên của nhà nước đối với CNH, HĐH là phải xác định rõ chiến lược CNH, HĐH để định hướng dài hạn cho quá trình


thực hiện cũng như lựa chọn hệ thống các chính sách và giải pháp để đạt được những mục tiêu đề ra.

Trong thực tế đã có hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá được thực hiện ở nhiều nước đang phát triển và đem lại những thành tựu nhất định. Các nhà kinh tế đã khái quát chúng thành lý thuyết về chiến lược công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Đó là chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.

Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được đưa ra dựa trên tư tưởng chủ đạo là thay thế những mặt hàng trước đây phải nhập khẩu bằng sản xuất trong nước nhằm mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tế, ý tưởng thay thế các sản phẩm nhập khẩu bằng sản xuất trong nước cuối cùng đã đưa đến chính sách xây dựng nền công nghiệp hoàn chỉnh với đủ mọi phân ngành công nghiệp, mang tính chất khép kín và đóng cửa với thế giới bên ngoài. Hệ thống chính sách trong quá trình thực hiện chiến lược này đều nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, với nghĩa đảm bảo cho các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ đối với những hàng hoá trước đây phải nhập khẩu có lợi nhuận. Nhìn chung, chiến lược này đã được thực hiện ở hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới II. Một số nước đã đạt được những thành tựu quan trọng về tốc độ tăng trưởng công nghiệp, về sự thay đổi cơ cấu kinh tế... Tuy nhiên, những kết quả này không duy trì được lâu và nhiều mặt hạn chế đã bộc lộ rõ. Một số mục tiêu như xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, có nền công nghiệp phát triển, cơ cấu kinh tế hiện đại và ngay cả một số mục tiêu khác như giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách, giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập đã không thực hiện được.

Do những hạn chế của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, từ đầu những năm 1970, một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với tư tưởng chủ đạo là khai thác lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương và đặt trọng tâm phát triển


vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế, sản xuất những cái mà thị trường cần và cái mà mình có lợi thế. Toàn bộ chính sách chủ yếu đều chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu với quan điểm đảm bảo cho những nhà sản xuất có lợi hơn nếu xuất khẩu sản phẩm.

Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hóa



Chiến lược công nghiệp hoá

thay thế nhập khẩu

Chiến lược công nghiệp hoá

hướng về xuất khẩu

Phương châm

Phát triển các ngành công

nghiệp thay thế nhập khẩu

Phát triển các ngành công

nghiệp phục vụ xuất khẩu

Nguyên tắc ban hành chính sách

Đảm bảo cho nhà sản xuất các sản phẩm trước đây phải nhập

khẩu có được lợi nhuận

Đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu xuất

khẩu sản phẩm


Nguồn động lực


- Thị trường nội địa

- Lẩn tránh cạnh tranh quốc tế

- Thị trường nước ngoài;

- Khuyến khích và đặt các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh quốc tế



Cơ cấu kinh tế không cân

Định hướng xác

Cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh

đối dựa vào khai thác lợi

lập cơ cấu kinh tế

mang tính tự cấp, tự túc

thế so sánh trong quan hệ



ngoại thương


Các chính sách chủ yếu

- Bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua hàng rào thuế quan và các biện pháp phi quan thuế

- Ưu đãi về thuế đối với hàng xuất khẩu và nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất xuất khẩu

- Trợ cấp và hỗ trợ cho sản



- Định giá đồng nội tệ cao

xuất để xuất khẩu

- Đánh tụt giá đồng nội tệ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 6


Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã được thực hiện ở một số nước ở Đông Á và đem lại những thành tựu quan trọng như đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian tương đối dài; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng gia tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp; đồng thời, các nước này còn giải quyết được một số vấn đề xã hội. Vì lẽ đó mà chiến lược này được coi là có triển vọng hơn cả và trở thành khuynh hướng phát triển chủ yếu của nhiều quốc gia đang phát triển.

Mặc dù vậy, từ giữa thập kỷ 1980, chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu cũng bộc lộ những mặt hạn chế, nhất là nó làm tăng sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Điều đó cho thấy, nó khó có thể áp dụng ở tất cả các nước bởi những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện thành công chiến lược này không phải nước nào cũng có được khi bối cảnh quốc tế liên tục biến đổi.

Từ thực tế đó, một số nhà nghiên cứu kinh tế đã đề xuất một chiến lược mới với sự kết hợp hợp lý giữa hai loại hình chiến lược trên và khái quát thành chiến lược công nghiệp hoá hỗn hợp hay chiến lược công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Chiến lược này được đề xuất trên cơ sở kết hợp các yếu tố của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là coi trọng thị trường trong nước, phát triển sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và các yếu tố của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là coi trọng thị trường nước ngoài trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh để phát triển mạnh mẽ các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Đó là sự điều chỉnh có sự kết hợp của hai chiến lược thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu trong đó hướng về xuất khẩu là chủ yếu, thay thế nhập khẩu đóng vai trò bổ sung. Chiến lược này coi trọng cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, trong đó lấy thị trường nước ngoài là trọng tâm và coi ngoại thương là động lực thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, chiến lược công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế có các đặc trưng sau: có một cơ cấu công nghệ theo hướng hội nhập quốc tế có tính linh hoạt và mềm


dẻo, đặt toàn bộ nền kinh tế đối mặt với thị trường thế giới, có một thể chế kinh tế - xã hội theo hướng hội nhập quốc tế và một nguồn nhân lực hội nhập quốc tế. Chiến lược này dựa trên tư tưởng xuyên suốt là việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế ở thị trường trong nước và quốc tế là nguyên tắc chung chi phối và quyết định sự thành bại của quá trình CNH, HĐH. Thực tế, chiến lược này đang được thực hiện một số nước ở khu vực Đông Á và cũng đã cho thấy sự phù hợp với xu thế phát triển của thế giới hiện nay.

1.2.2.2. Nhà nước đề ra các chính sách thúc đẩy CNH, HĐH

Xác định chiến lược là một trong những yếu tố mang tính nền tảng định hướng cho CNH, HĐH. Tuy nhiên, để thực hiện nội dung chiến lược đề ra rất cần đến vai trò can thiệp, điều tiết của nhà nước thể hiện ở chức năng tạo lập cơ chế và các chính sách, giải pháp thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH.

a. Về chính sách phát huy động lực của kinh tế thị trường đối với CNH, HĐH

Cả lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng thị trường là phương pháp điều phối các hoạt động kinh tế của con người một cách hiệu quả. Theo kinh tế học chính thống, thị trường có chức năng thông tin trong việc điều tiết các hoạt động sản xuất và hướng các nguồn lực bằng tín tiệu giá cả. Hệ thống thị trường với tư cách là một thể chế hoặc một hệ thống các thể chế là cách tốt nhất để tổ chức và phân phối trong xã hội loài người. Sức sống và sự tồn tại lâu bền của hệ thống thị trường trước hết xuất phát từ tình phù hợp của nó đối với bản chất con người, hay “quyền tự nhiên” của con người, nó làm cho các cá nhân thể hiện năng lực tốt nhất của mình thông qua cạnh tranh và làm cho mỗi cá thể doanh nghiệp lớn mạnh. Hệ thống này dựa trên sự tôn trọng và bảo vệ quyền tư hữu, cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích của mình một cách tự do và do đó, có thể tận dụng tối đa tiềm năng con người cho các mục tiêu sản xuất [71, tr. 38].

Với các nước đang phát triển, khi nền kinh tế thị trường còn ở trình độ thấp, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, chưa đủ khả năng phát huy tác dụng

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí