Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 20


CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ

TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM


3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

3.1.1. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ

Nền kinh tế phát triển đặt các doanh nghiệp vào sức ép cạnh tranh lớn. Sự cạnh tranh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi toàn cầu. Khi sức ép cạnh tranh càng lớn thì các doanh nghiệp càng cần một HTKSNB hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, mức độ tin cậy của thông tin là điều kiện để các nhà quản lý đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Sau một loạt các vụ gian lận tài chính ở Mỹ (Worldcom và Enron), tính cấp thiết phải có bộ phận kiểm soát thông tin ngay từ bản thân doanh nghiệp càng được đặt ra với các tập đoàn lớn. Như vậy, có thể khẳng định sự hình thành, tồn tại và phát triển của hoạt động KTNB là do các nhân tố sau:

Một là, KTNB là phương thức quản lý hữu hiệu của doanh nghiệp, là một yếu tố cấu thành quan trọng của HTKSNB. KTNB có thể coi là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Thông qua công cụ này, ban giám đốc và hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng, công cụ kiểm soát này cũng cần thay đổi kịp thời phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.

Hai là, Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập với nến kinh tế khu vực và thế giới. Doanh nghiệp cần thúc đẩy hoạt động đầu tư, thúc đẩy hoạt động của một kênh huy động vốn hữu hiệu là thị trường chứng khoán. Một doanh nghiệp có KTNB sẽ làm gia tăng niềm tin của các cổ đông, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ thống quản trị của mình. Các thống kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng KTNB thường có báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.


xác cao, khả năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với các công ty không có phòng KTNB. Do đó, bộ phận KTNB phải thường xuyên thay đổi hoàn thiện với yêu cầu của người quan tâm đến thông tin kế toán.

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 20

Ba là, Trong khi hoạt động của kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của KTNB không bị giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong công ty: từ mua hàng, sản xuất, bán hàng đến quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của KTNB là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho đối tác bên ngoài. KTNB không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty. Điều này dẫn đến vai trò không thể thiếu được của các hoạt động KTNB trong doanh nghiệp.

Bốn là, Các tập đoàn kinh tế trong đối tượng nghiên cứu của Luận án đều là các tập đoàn kinh tế nhà nước do đó phải tuân thủ theo các quy định của Nhà nước về tài chính, kế toán, kiểm tra, kiểm soát hoạt động. Để thực hiện được nhiệm vụ kiểm soát về hoạt động kinh doanh, tài chính, kế toán, các tập đoàn kinh tế phải tổ chức KTNB như một công cụ hữu hiệu của kiểm soát. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước đã cố gắng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường kiểm tra giám sát cho các tập đoàn kinh tế, việc tổ chức KTNB sẽ trở thành một yêu cầu mang tính quy định của Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước. Quốc hội ban hành Luật Kế toán năm 2003 có hiệu lực từ ngày 01-01-2004 đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn đến chất lượng thông tin kế toán, tài chính. KTNB là một yếu tố cấu thành góp phần quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu trung thực, đáng tin cậy của nhưng thông tin tài chính và thông tin hoạt động. Ngoài ra, Điều 6 Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực từ ngày 01-01-2006 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước phải xây dựng và duy trì hoạt động HTKSNB thích hợp và có hiệu quả, tổ chức KTNB theo quy định của pháp luật để bảo vệ an toàn tài sản, đánh giá chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế tài chính, việc chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và nội quy, quy chế của đơn vị. Những yêu cầu pháp lý này đã khẳng định tầm quan trọng của tổ chức và hoàn thiện KTNB đối với các tập đoàn hiện nay.

Năm là, Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 của Chính phủ quy định về hoạt động kiểm toán độc lập đặt ra yêu cầu bắt buộc báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà nước phải được doanh nghiệp kiểm toán độc lập tiến hành


kiểm toán. Nghị đinh này đã tác động lớn đến nội dung của KTNB tại các doanh nghiệp nhà nước. Trước đây, KTNB chủ yếu tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị. Việc ban hành quy định này có tác dụng định hướng nội dung của KTNB là kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Riêng với kiểm toán tài chính sẽ chủ yếu tiến hành kiểm toán thông tin tài chính và kiểm toán báo cáo kế toán quản trị.

Trên thế giới, KTNB đã ra đời từ lâu nhưng chỉ phát triển mạnh từ sau các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của HTKSNB công ty. Đây là một minh chứng rõ ràng về tính tất yếu khách quan phải xây dựng KTNB trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế.

3.1.2. Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ - yêu cầu tự thân của các tập đoàn kinh tế

Hoàn thiện tổ chức KTNB không chỉ là yêu cầu mang tính khách quan mà còn là yêu cầu tự thân của các tập đoàn kinh tế của Việt Nam. Có thể xem xét đến vấn đề này dựa trên những khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất, KTNB là một yếu tố cấu thành HTKSNB của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong các yếu tố cấu thành của HTKSNB, KTNB mới được thiết lập và phát triển gần đây. Do đó cần xây dựng và hoàn thiện KTNB nhằm đảm bảo cho các tập đoàn kinh tế có HTKSNB mạnh. Hiệu quả hoạt động của HTKSNB sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động của quá trình kinh doanh và hiệu năng của quá trình quản lý.

Thứ hai, Các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước có đặc điểm liên kết về vốn tương đối phức tạp. Các liên kết này có thể liên kết dựa trên các quan hệ đầu tư vốn dẫn đến hình thành các loại doanh nghiệp thành viên khác nhau trong tập đoàn: công ty con do công ty mẹ đầu tư 100% vốn điều lệ, trên 50% vốn điều lệ hoặc các công ty liên kết. Ngoài ra, trong các tập đoàn kinh tế nhà nước còn có một loại hình doanh nghiệp đặc biệt so với các tập đoàn kinh tế trên thế giới đó là doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp trong tập đoàn. Như vậy, mối quan hệ của công ty mẹ có thể là mối quan hệ kiểm soát dựa trên tỷ lệ vốn đầu tư cũng có thể là mối quan hệ hành chính và các công ty thành viên có trách nhiệm giải trình với công ty mẹ trong tập đoàn. Như vậy, chức năng kiểm


tra kiểm soát nhằm phục vụ quản lý của các tập đoàn không chỉ dưới một hình thức mà dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, KTNB của các tập đoàn sẽ đóng vai trò vừa là bộ phận kiểm soát vừa là bộ phận tư vấn trong tập đoàn. KTNB đang chủ yếu thực hiện theo hướng kiểm soát nhiều hơn là tư vấn. Vì vậy, KTNB trong các tập đoàn cần hoàn thiện hướng tới lĩnh vực này.

Thứ ba, Các tập đoàn kinh tế có điểm khác biệt lớn với tổng công ty là xu hướng kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực trong đó có một ngành hay lĩnh vực làm nòng cốt. Nhiều tập đoàn hiện nay đã có xu hướng đầu tư quá nhiều vào những lĩnh vực không phải là lĩnh vực kinh doanh chính. Điều đó, đặt cho bộ máy điều hành và KTNB nhiệm vụ đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động trước khi nó được thực hiện thông qua các báo cáo khả thi, dự báo dự toán. Nhiệm vụ này đòi hỏi các bộ phận KTNB phải hoàn thiện với các kỹ thuật đánh giá mới với đội ngũ KTVNB có năng lực chuyên môn cao hơn. Hơn nữa, đây cũng chính là điểm mấu chốt trong việc thay đổi cách tiếp cận đối tượng kiểm toán và nội dung của KTNB. Xu hướng của KTNB trên thế giới là tạo ra một cơ chế hoạt động linh hoạt cho bộ phận KTNB đồng thời cũng thay đổi cách tiếp cận đối tượng kiểm toán. Nếu trước kia, phần lớn các loại kiểm toán kể cả KTNB đều tiếp cận kiểm toán theo hướng tiếp cận và đánh giá kiểm soát nội bộ thì hiện nay để đối mặt với những rủi ro không ngừng biến đổi của nền kinh tế toàn cầu, KTNB tiếp cận theo phương pháp mới "tiếp cận trên cơ sở đánh giá rủi ro".

Thứ tư, Các tập đoàn kinh tế nhà nước đều được hình thành từ các tổng công ty nhà nước. KTNB của các tập đoàn này đều là phòng KTNB cũ của các tổng công ty. Tư duy hoạt động và cách thức làm việc của các bộ phận KTNB của các tập đoàn không tránh khỏi lối cũ, hoạt động kiểm toán theo mệnh lệnh hành chính. Từ phía công ty mẹ, những người ra quyết định kiểm toán vẫn đặt nhiệm vụ kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra việc tuân thủ chứ chưa đặt nhiệm vụ cho bộ phận kiểm toán các chức năng khác (tư vấn, giám sát). Từ phía các doanh nghiệp thành viên, quan niệm cũ vẫn còn tồn tại: khi nhận kế hoạch kiểm toán năm, các đơn vị thành viên vẫn cho là mình "bị kiểm toán" chứ không phải là "được kiểm toán". Quan niệm này cho rằng trách nhiệm của doanh nghiệp thành viên chỉ là trách nhiệm giải trình.

Thứ năm, KTNB giúp tham gia vào quá trình thực hiện các mục tiêu hoạt động lớn nhất của các tập đoàn. Nhiều tập đoàn theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng được ba mục tiêu bắt buộc của phát triển bền vững: tăng


trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Kết quả là tam giác ba mục tiêu này không thực sự mở rộng ở cả ba góc trong quá trình tăng trưởng một cách đồng bộ. Thay vào đó là bị co méo ở hai góc kia, tăng trưởng tuy có đạt, nhưng hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc không ngang tầm với sự tăng trưởng. Để phát triển bền vững, bất kỳ doanh nghiệp nào và đặc biệt là các tập đoàn cũng phải cân bằng cả ba mục tiêu trên.

Những phân tích trên đã dẫn đến khẳng định hoàn thiện tổ chức KTNB không chỉ là yêu cầu mang tính khách quan mà còn là yêu cầu nội tại của chính các tập đoàn kinh tế nhà nước. Điều này cũng phù hợp với xu thế chung của các tập đoàn kinh tế trên thế giới.

3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG TỚI TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể với sự đóng góp không nhỏ từ các tập đoàn kinh tế. Việc phát triển các tập đoàn như một đầu tầu của nền kinh tế được coi là ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế hiện nay. Có thể xem xét các định hướng phát triển tập đoàn kinh tế trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế cần quán triệt quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước: Chủ trương hình thành tập đoàn kinh tế phải thực hiện ở những ngành, lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Hơn nữa, việc hình thành các tập đoàn kinh tế của Việt nam nhằm hướng tới tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế. Điều này dẫn đến bản thân các tập đoàn kinh tế cũng phải tự xác định thế mạnh của mình để phát triển chứ không thể đi theo xu hướng hoạt động dàn trải, phân tán.

Hai là, Tạo sự phù hợp giữa phát triển tập đoàn kinh tế với quá trình đổi mới cơ chế quản lý: Mô hình tập đoàn kinh tế với các quan hệ mới phải phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý. Xu hướng phát triển của các tập đoàn của Việt Nam sẽ đi theo xu hướng chuyển từ quản lý theo các quan hệ hành chính sang điều hành và kiểm soát dựa trên các quan hệ sở hữu.

Ba là, Về mô hình: Mỗi doanh nghiệp, trên cơ sở quy mô, ngành, nghề, liên kết, cấu trúc sẽ lựa chọn một mô hình phù hợp nhằm phát huy thế mạnh của mình, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Dù lựa chọn mô hình nào thì các doanh nghiệp được xây dựng theo mô hình tập đoàn cũng cần tuân thủ ba nguyên tắc


sau: Thứ nhất, về sở hữu: Đa sở hữu là xu hướng chủ yếu khi xây dựng các tập đoàn kinh tế. Trước mắt, các tập đoàn kinh tế có thể do nhà nước sở hữu 100% vốn nhưng cần phải có lộ trình cổ phần hóa nhằm thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước, tăng cường hợp tác với các thành phần kinh tế khác dưới nhiều hình thức khác nhau như liên kết, liên doanh, công ty cổ phần nhằm chuyển dần từ đơn sở hữu sang đa sở hữu. Các công ty do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ cũng cần được chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Thứ hai, về ngành nghề: ngoài việc tập trung phát triển ngành nghề chính, các tập đoàn kinh tế cần tăng cường mở rộng ngành, lĩnh vực kinh doanh theo hướng đa ngành nhằm phát huy lợi thế về quy mô, thương hiệu và tiềm lực tài chính đồng thời phân tán rủi ro trong điều kiện môi trường kinh doanh còn nhiều biến động. Thứ ba, về cấu trúc: Trong điều kiện hiện nay, cấu trúc công ty mẹ - công ty con được coi là tương đối phù hợp. Việc lựa chọn cấu trúc quan hệ trong nội bộ phải phát huy được thế mạnh, đảm bảo hoạt động quản lý, điều hành khoa học, linh hoạt và hiệu quả.

Bốn là, Về liên kết: Dựa trên chiến lược phát triển và đặc thù ngành, lĩnh vực kinh doanh, các tập đoàn có thể lựa chọn phát triển liên kết ngang (cùng ngành), liên kết dọc (khác ngành) và hỗn hợp (đan xen hai hình thức trên) nhằm phát huy tối đa năng lực và hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, việc lựa chọn liên kết trong các tập đoàn phải mang tính thống nhất và có hệ thống nhằm tạo hiệu quả phát triển trong các tập đoàn.

Năm là, Về phương thức thành lập: Kết hợp cả phương thức phát triển truyền thống và phương thức hình thành bởi sự can thiệp của nhà nước, trong đó ưu tiên cách thứ hai. Các tập đoàn sẽ chủ yếu được hình thành thông qua sự can thiệp của Nhà nước. Các tập đoàn kinh tế nhà nước đang chủ yếu được hình thành bằng cách cơ cấu lại cấu trúc hoạt động và đa dạng sở hữu từ các tổng công ty lớn. Phương thức hình thành này bước đầu đã có những thành tựu đáng kể và thể hiện tính phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Sáu là, Về vai trò của nhà nước: Không nên tuyệt đối hóa nhưng cũng không nên coi nhẹ vai trò của nhà nước trong quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. Các quan hệ kinh tế tuân theo quy luật khách quan. Nhà nước chỉ tác động mang tính hỗ trợ và định hướng. Tuy nhiên, xác định vai trò hỗ trợ của nhà nước ở mức độ nào là một trong những bài toán khó trong quản lý nhà nước.


Định hướng phát triển trên tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kiểm tra kiểm soát song cũng đặt ra nhiều thách thức đối với tổ chức KTNB trong các tập đoàn. Có thể xem xét các định hướng này ảnh hưởng đến công tác kiểm tra kiểm soát nói chung và KTNB nói riêng trên những khía cạnh sau:

Một là, Sự phát triển của các tập đoàn có sự can thiệp của nhà nước tạo tiền đề cho việc huy động vốn, lao động và tài nguyên trong các tập đoàn. Tuy nhiên, sự chi phối của nhà nước cũng tạo ra một cơ chế kiểm soát bắt buộc và cưỡng chế. Trong khi đó, KTNB chỉ có thể phát triển dựa trên cơ sở tự nguyện nhiều hơn là cưỡng chế và bắt buộc. Hơn nữa, sự chi phối vào các hoạt động của nhà nước đối với các tập đoàn đôi khi tạo rào cản cho cơ chế mở của các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Điều này giảm tính tự chủ trong các tập đoàn và cũng làm cho các nhà quản lý tập đoàn càng phải cân nhắc đắn đo nhiều hơn nữa đến các quy định về kiểm tra kiểm soát. Đây cũng sẽ là một vấn đề đối với việc tổ chức KTNB nếu các doanh nghiệp không thoát ly một cách hoàn toàn với cơ chế "xin cho".

Hai là, Quá trình đổi mới các doanh nghiệp ảnh hưởng tới quản lý. Khi các tập đoàn được tự điều chỉnh bằng quan hệ sở hữu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới công tác kiểm tra kiểm soát. Quan hệ kiểm tra kiểm soát của KTNB với các khách thể sẽ là quan hệ dựa trên tỷ lệ sở hữu của công ty mẹ với doanh nghiệp thành viên, dựa trên các điều khoản hợp đồng liên kết chứ không dựa vào các quan hệ hành chính.

Ba là, Sự phát triển dựa trên liên kết hỗn hợp đòi hỏi KTNB bộ máy KTNB phải được xây dựng phù hợp. Chính vì vậy, KTNB phải đảm bảo đủ cả về số lượng và chất lượng. Các tập đoàn càng hướng tới kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực càng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro hơn. Cách thức tiếp cận truyền thống của KTNB không còn phù hợp mà thay vào đó là cách thức tiếp cận mới. Ở các nước trên thế giới KTNB đang tiếp cận kiểm toán đối với cả kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động theo cách thức tiếp cận rủi ro (risk base approach). Chính vì thế mà KTNB của các tập đoàn kinh tế càng phải tăng cường về cả số lượng và chất lượng.

Bốn là, Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế đặt ra nhiều vấn đề mới về kiểm tra kiểm soát. Những vấn đề về ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên quá mức, đầu tư tràn lan là vấn đề buộc KTNB phải thay đổi trong việc trau dồi kiến thức chuyên môn. Với sự phát triển này, KTNB có thể hướng đến tiến hành đánh giá rủi ro hoạt động của các chương trình dự án, hướng đến thực hiện những loại hình kiểm toán mới như kiểm toán môi trường.


Như vậy, các tập đoàn kinh tế của Việt Nam cần phát triển có định hướng, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nhưng không xem nhẹ vai trò của Nhà nước. KTNB trong các tập đoàn kinh tế là một mắt xích quan trọng trong kiểm tra kiểm soát, một chức năng của quản lý các tập đoàn kinh tế cần dựa trên những định hướng và chiến lược phát triển của nhà nước và của bản thân các tập đoàn kinh tế. Tổ chức KTNB phải đảm bảo phù hợp với định hướng chung của Đảng và Chính phủ trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

3.3. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Định hướng phát triển các tập đoàn có ảnh hưởng không nhỏ tới quan điểm hoàn thiện tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh tế. Nhìn chung, KTNB trong các tập đoàn sẽ hướng tới các quan điểm hoàn thiện sau:

Thứ nhất, KTNB trong các tập đoàn phải được hoàn thiện theo hướng đáp ứng thông tin tốt nhất cho quản lý về đánh giá hoạt động, kể cả hoạt động tài chính và phi tài chính. Trước hết, phải khẳng định đối tượng cung cấp thông tin của KTNB chính là những nhà quản lý cấp cao nhất của các tập đoàn. Khi xác định đối tượng cung cấp thông tin như vậy, KTNB trong các tập đoàn sẽ phải xác định vị trí pháp lý đủ để không bị giới hạn phạm vi hoạt động. Nhà quản lý muốn có các quyết định đúng đắn đều phải dựa vào các thông tin trung thực, khách quan, kịp thời và chính xác. Các thông tin phục vụ cho quyết định không chỉ là các thông tin thu thập từ tài liệu kế toán mà còn là các thông tin phi tài chính khác. KTNB được xem như một phương thức hữu hiệu trợ giúp cho quản lý trong việc đánh giá các hoạt động. KTNB sẽ xem xét các khía cạnh khác nhau của một hoạt động cụ thể trên cả phương diện tính trung thực, hợp pháp, hợp lý, kịp thời của thông tin và tính kinh tế, hiệu quả, hiệu năng của hoạt động. Đặc biệt, đòi hỏi về đánh giá tính kịp thời và phù hợp của thông tin và kinh tế, hiệu quả và hiệu năng của hoạt động đã thúc đẩy phát triển những lĩnh vực kiểm toán mới phát triển như kiểm toán hoạt động (kiểm toán hiệu quả, hiệu năng), kiểm toán thông tin trên báo cáo kế toán quản trị.

Thứ hai, KTNB trong tập đoàn phải phát triển theo hướng linh hoạt trong tổ chức bộ máy và chuyên nghiệp hóa trong tổ chức hoạt động. Tính linh hoạt và chuyên nghiệp của KTNB trong tập đoàn có thể được xem xét trên các khía cạnh sau: Một là, Các mô hình hoạt động của KTNB trong các đơn vị thành viên của tập đoàn không thể xây dựng theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào mà hoàn toàn dựa vào đặc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/01/2023