đổi của môi trường kinh doanh và hình thức tổ chức mới ở các tập đoàn nhưng vẫn được đơn vị áp dụng. Trong thực hiện kiểm toán, KTNB chưa có các chuẩn mực thực hành dẫn đến việc quy trình kiểm toán và phương thức thực hiện ở các tập đoàn còn rất nhiều điểm khác nhau. Điều này có thể tạo ra sự thiếu chuyên nghiệp trong KTNB. Hơn nữa, ảnh hưởng của cách thức kiểm tra cũ, làm việc theo kinh nghiệm đã làm cho hoạt động kiểm toán bị trùng lặp với các hoạt động kiểm tra khác trong khi đó lại bỏ qua những lĩnh vực rất quan trọng của KTNB hiện đại như hiệu quả, hiệu năng.
2.3.2.2. Về tổ chức bộ máy kiểm toán
KTNB ở Việt Nam mới chính thức xuất hiện hơn 10 năm do đó trong quá trình xây dựng và tổ chức không thể tránh được những hạn chế nhất định. Có thể khái quát các hạn chế chủ yếu sau trong tổ chức bộ máy kiểm toán:
Thứ nhất, Việc thực hiện chức năng của bộ phận kiểm toán. KTNB có bốn chức năng cơ bản là kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn. Theo khảo sát của Tác giả, ba chức năng đầu được KTNB các tập đoàn thực hiện tương đối tốt nhưng với chức năng thứ tư KTNB trong các tập đoàn thực hiện chưa toàn diện. Chức năng tư vấn được thực hiện chủ yếu với các hoạt động tài chính kế toán chứ chưa triển khai sang các hoạt động khác của tập đoàn như hoạt động đầu tư, chiến lược hoạt động... Việc thực hiện chưa toàn diện chức năng này còn hạn chế chủ yếu do quá trình thực hiện KTNB mới chỉ được chú trọng với loại hình kiểm toán báo cáo tài chính. KTNB chưa thực sự thực hiện tốt vai trò của bộ phận tham mưu cho Tổng giám đốc trong vấn đề quản lý tài chính các đơn vị và việc ra các quyết định đầu tư vào các đơn vị liên doanh liên kết, các công trình xây dựng cơ bản.
Thứ hai, Trong thực hiện chức năng của ban kiểm soát và bộ phận KTNB còn có những điểm chồng chéo. Ban kiểm soát thực hiện chức năng kiểm soát đối với hội đồng quản trị và bộ máy điều hành của tập đoàn, của doanh nghiệp thành viên còn ban KTNB thực hiện chức năng kiểm tra đối với các hoạt động của các doanh nghiệp thành viên mà công ty mẹ nắm giữ toàn bộ hoặc cổ phần chi phối của đơn vị thành viên. Như vậy, hoạt động của Bộ phận KTNB sẽ chủ yếu tập trung vào kiểm toán báo cáo tài chính, các tác nghiệp cụ thể còn hoạt động của Ban kiểm soát chủ yếu liên quan đến đánh giá sự hữu hiệu của tổ chức và hoạt động điều hành. Tuy nhiên, trong các tập đoàn hiện nay, ban kiểm soát của một số tập đoàn vẫn thực hiện chức
năng kiểm tra báo cáo tài chính và kiểm tra việc tuân thủ pháp luật và quy chế. Ban kiểm soát và ban kiểm toán sẽ phân chia thực hiện hoạt động kiểm toán đối với các đơn vị thành viên trong tập đoàn. Điều này dẫn đến việc nhiều tập đoàn đã không tổ chức một phòng ban KTNB độc lập mà ghép vào các bộ phận khác trong bộ máy điều hành của tập đoàn (Tập đoàn Quốc gia Dầu khí Việt Nam).
Thứ ba, Chưa đa dạng hình thức xây dựng KTNB trong các đơn vị thành viên của tập đoàn. Các tập đoàn hiện nay mới chỉ xây dựng các bộ phận KTNB trong đơn vị thành viên chủ yếu dưới mô hình tổ chức là các phòng, ban, tổ KTNB còn rất ít sử dụng mô hình giám định viên kế toán. Các tập đoàn thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án đều là các tập đoàn nhà nước do đó việc xây dựng KTNB chỉ theo mô hình phòng, ban, nhóm KTNB mà không xây dựng theo dạng giám định viên kế toán là một hạn chế trong xây dựng mô hình tổ chức KTNB.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 16
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 17
- Về Xây Dựng Và Thực Hiện Quy Chế Kiểm Toán
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 20
- Mở Rộng Nội Dung Và Phạm Vi Kiểm Toán Theo Hướng Liên Kết Các Loại Hình Kiểm Toán
- Xây Dựng Quy Trình Kiểm Toán Nội Bộ Cụ Thể Trong Các Tập Đoàn Tương Ứng Với Từng Loại Khách Thể Kiểm Toán
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
Thứ tư, KTNB mới chỉ tham gia vào giám sát, tư vấn giới hạn ở việc đóng góp ý kiến. KTNB trong các tập đoàn đã tham gia vào hầu hết các quy trình thiết lập thủ tục hoạt động. Bộ phận này cũng tham gia vào việc giám sát và tư vấn những dự án lớn của tập đoàn tuy nhiên mức độ tham gia của KTNB mới chỉ giới hạn ở việc đóng góp ý kiến chứ chưa có sự tham gia chi tiết hoặc tham gia về chuyên môn trong quá trình phát triển của các tập đoàn. Đây cũng được coi là một hạn chế trong việc thể hiện tính chuyên nghiệp của KTNB.
Thứ năm, Bộ phận KTNB của các tập đoàn hiện nay chưa đặt chuẩn cho các KTVNB về bằng cấp - trình độ nghiệp vụ, chứng chỉ nghề nghiệp hay các kỹ năng để trở thành KTVNB. KTNB trong các doanh nghiệp thành viên tập đoàn chỉ mới đặt ra yêu cầu là có trình độ nghiệp vụ về kế toán kiểm toán nhưng chưa đặt ra trong các quy định riêng của tập đoàn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến lĩnh vực hoạt động của tập đoàn hay doanh nghiệp thành viên. Trong bộ máy KTNB của các tập đoàn còn thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm và chuyên môn sâu về các lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn. Trong khảo sát của tác giả, phần lớn các KTVNB đều chỉ có chuyên môn về kế toán và kiểm toán.
Thứ sáu, KTNB trong các tập đoàn đều chưa có yêu cầu số giờ bồi dưỡng nghiệp vụ liên tục (CPE - Continuous Professional Education ). Thông lệ phổ biến trên thế giới đối với nghề nghiệp kế toán và kiểm toán là các KTV phải liên tục hoàn thiện chuyên môn và phải đạt đủ yêu cầu bồi dưỡng chuyên môn. Đòi hỏi này nhằm duy trì và phát triển kỹ năng nghề nghiệp của các KTVNB, bắt kịp với những thay
đổi của môi trường kinh doanh và chính sách tài chính kế toán. Tuy nhiên yêu cầu đó chưa được đặt ra thành một quy định mang tính bắt buộc đối với KTVNB các tập đoàn hiện nay.
Thứ bảy, Chưa có cơ chế hoạt động cho các ý kiến phản hồi từ doanh nghiệp thành viên được kiểm toán. Hiện nay trong các tập đoàn, chưa có những cuộc gặp thường xuyên với các lãnh đạo bộ phận chức năng để thu thập ý kiến phản hồi của các bộ phận này về công tác của bộ phận KTNB và những ý kiến đóng góp nhằm xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm và nâng cao chất lượng của công tác KTNB. Trong khi đó, những ý kiến này được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhằm hoàn thiện hoạt động KTNB.
Thứ tám, Chưa thực hiện luân chuyển cán bộ. Luân chuyên cán bộ và các vị trí trong KTNB là một xu hướng phổ biến hiện nay trong các tập đoàn trên thế giới. Điều này làm tăng tính độc lập của KTVNB và tạo cơ hội hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ một cách toàn diện cho các KTVNB. Lãnh đạo điều hành các tập đoàn chưa thực hiện thủ tục luân chuyển công tác cho các cán bộ của bộ phận KTNB, một phần của quá trình nâng cao năng lực nghề nghiệp. Điều này có nghĩa là khi một cán bộ được giao nghiệm vụ ở Ban KTNB ở tập đoàn hay doanh nghiệp thành viên này thì họ rất ít có cơ hội được thuyên chuyển sang bộ phận KTNB của của doanh nghiệp thành viên khác hoặc làm việc trong các ban khác để tích lũy kinh nghiệm.
Thứ chín, Chưa thể hiện rõ xu hướng phát triển tổ chức theo phương thức linh hoạt. Trên thế giới, các bộ phận KTNB đều phát triển theo xu hướng được tăng cường sự linh hoạt, tăng cường quyền hạn. Tại Việt Nam, các tập đoàn mặc dù đã hình thành xu hướng đó song vẫn chưa định hình cơ chế linh hoạt một cách rõ ràng . Cơ chế linh hoạt được biểu hiện rất rõ trong cách thức tổ chức, trong quy mô tổ chức KTNB.
Như vậy, những vấn đề tồn tại của KTNB của các tập đoàn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, mang tính hệ thống. Điều này đòi hỏi phải tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những tồn tại này để có sự cải thiện một cách đông bộ và hệ thống. Đây là vấn đề đang được đặt ra đối với nhà quản lý các cấp ở các tập đoàn để khắc phục tính trạng kinh doanh thua lỗ, thất thoát tài sản của nhà nước, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực không hiệu quả...
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong tổ chức kiểm toán nội bộ của các tập đoàn kinh tế của Việt Nam
Việc tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại này là rất cần thiết để tìm kiếm những giải pháp nhằm khắc phục triệt để các hạn chế. Những nguyên nhân này có thể là tổ hợp từ nhiều yếu tố mang tính khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, cung có thể nhận thấy những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức KTNB trong các tập đoàn ở Việt Nam có thể mang tính cố hữu mà nhà quản lý chỉ có thể giảm thiểu chứ không thể tìm cách loại bỏ hoàn toàn. Để xem xét các yếu tố này, trước hết có thể xem xét các nguyên nhân khách quan sau:
Thứ nhất: Yếu tố mang tính lịch sử từ các hoạt động kiểm tra kiểm soát. Hoạt động kiểm tra kiểm soát được hình thành từ rất sớm ở Việt Nam. Tuy nhiên, do cơ chế quản lý kinh tế cũ đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài do đó cách thức kiểm tra kiểm soát cũng mang những đặc trưng riêng của cơ chế đó. Việc kiểm tra kiểm soát theo cơ chế cũ mang tính kiểm tra hành chính nhiều hơn là kiểm tra trên các quan hệ kinh tế. Trong khi đó, các tập đoàn hiện nay đều có liên kết cơ bản là liên kết về kinh tế dựa trên mối quan hệ sở hữu. Cách thức kiểm tra kiểm soát cũ không được áp dụng một cách khuôn mẫu máy móc trong thực tế hiện nay của các tập đoàn nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến cách thức tổ chức KTNB trong các tập đoàn. KTNB được thực hiện như một chức năng kiểm tra kiểm soát của quản lý nhưng do ảnh hưởng đó nên đã mang nhiều tính "kiểm tra hành chính". Hơn nữa, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều được hình thành từ việc cơ cấu lại các Tổng công ty 91. Cơ chế hoạt động của các Tổng công ty đã được áp dụng trong nhiều năm nên cách thức quản lý theo cơ chế này đã ăn sâu vào tiềm thức của cả người quản lý và người bị quản lý. Chính vì thế nên hoạt động kiểm tra kiểm soát nói chung và KTNB nói riêng đã thiếu "tính chuyên nghiêp" một phần rất lớn bởi nguyên nhân này.
Thứ hai: Cơ sở pháp lý của kiểm toán còn chưa đồng bộ, hệ thống văn bản pháp lý còn chưa đầy đủ và có nhiều hạn chế ảnh hưởng tới sự phát triển của KTNB. Kiểm toán mới chỉ xuất hiện chính thức ở Việt Nam chưa lâu so với lịch sử phát triển kiểm toán trên thế giới. Các văn bản pháp lý hiện nay ở Việt Nam đều đã ra đời từ khi các mô hình hoạt động mới của các doanh nghiệp còn chưa được hình thành. Việc quy định quá sâu vào tổ chức bộ máy và tổ chức công việc kiểm toán đã tạo ra những rào cản cho hoạt động KTNB. Các quy định này của Việt Nam đều là những văn bản pháp quy chứ không phải là các chuẩn mực hay tiêu chuẩn thực hành.
Trong khi đó, với sự thay đổi không ngừng của môi trường kinh doanh hiện đại, KTNB cần những quy định mang tính gợi mở, hướng dẫn chứ không phải là những quy định mang tính bắt buộc hay mang tính pháp quy như hiện nay. Hơn nữa, các văn bản này lại tập trung chủ yếu đến tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước, trong khi đó việc hình thành các tập đoàn kinh tế lại đi theo xu hướng giảm phần vốn sở hữu của nhà nước trong các tập đoàn để huy động từ các nguồn lực khác của nền kinh tế. Do đó, những quy định này được áp dụng một cách "khiên cưỡng" trong các tập đoàn kinh tế. Mặc dù những hạn chế này đã được sửa đổi rất nhiều tuy nhiên những ảnh hưởng của chúng vẫn đang là một nguyên nhân gây ra những tồn tại trong KTNB của các tập đoàn kinh tế nói riêng và các doanh nghiệp nói chung.
Thứ ba: Mô hình tổ chức tập đoàn kinh tế theo Đề án Thí điểm còn tương đối cứng nhắc, không tạo điều kiện cho KTNB phát triển. Như phần trên Tác giả đã đề cập, các tập đoàn kinh tế hiện nay đang tổ chức mô hình tập đoàn có văn phòng điều hành tại công ty mẹ và có các ban chức năng nhưng bị giới hạn bới chi phí hoạt động của các ban chức năng. Hơn nữa, trong mô hình tổ chức hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005, các tập đoàn đều tổ chức ban kiểm soát mang tính bắt buộc nhưng không quy định về việc tổ chức KTNB. Tuy nhiên, thực tế áp dụng mô hình này đã nảy sinh bất cập. KTNB có thể trực thuộc hội đồng quản trị, ban kiểm soát trong khi báo cáo lại phục vụ chủ yếu cho bộ máy quản lý điều hành hoạt động trực tiếp là ban giám đốc. Hơn nữa, ngay cả khi KTNB trực thuộc ban giám đốc thì vẫn nảy sinh mẫu thuẫn về lợi ích. KTNB được xem như sự hỗ trợ trong đánh giá hoạt động của tất cả các cấp quản lý của doanh nghiệp. Trong khi đó, xét đến cùng thì ban giám đốc cũng chỉ là nhà quản lý cấp cao nhất. Thực tế này là một điều khó tránh khỏi khi quá trình chuyển đổi của chúng ta với các tập đoàn kinh tế mới chỉ bắt đầu. Nhà nước vẫn đang nắm giữ cổ phần chi phối trong phần lớn các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn. Điều này dẫn đến sự chuyển biến trong tổ chức và quản lý của các tập đoàn vẫn chưa có những bước đột phá để phát triển.
Thứ tư: Môi trường kinh doanh thay đổi, ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế làm cho KTNB có sự biến đổi lớn. Sự phát triển của các ngành nghề kinh doanh mới trong nền kinh tế công với sự phát triển cả về quy mô, số lượng các doanh nghiệp trong tập đoàn kinh tế làm cho khả năng tồn tại các sai phạm tăng lên. Hơn nữa, nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung đang trong thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Điều này làm cho khả năng nảy sinh sai phạm
càng có xu hướng gia tăng. Điều này đặt vào tay những người làm KTNB một nhiệm vụ rất khó khăn. Trong khi đó, KTNB ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tìm kiếm hướng đi, cố gắng bắt kịp sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Vì vậy, KTNB càng cần có sự định hướng rõ ràng hơn từ phía các cơ quan nhà nước nhằm làm thay đổi nhận thức của cả những người làm KTNB và cả những người không thực hiện KTNB.
Tuy nhiên, cũng phải khẳng định, những hạn chế của KTNB không chỉ xuất phát từ những nguyên nhân khách quan mà còn bị ảnh hưởng bởi chính các nguyên nhân chủ quan. Thông qua các kết quả khảo sát và phân tích về KTNB trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam có thể nhận thấy một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Một vấn đề mang tính bản chất và là tồn tại lớn chính là nhận thức của nhà quản lý các doanh nghiệp thành viên, người sử dụng thông tin từ KTNB. Trong số những nhà quản lý được phỏng vấn thì có đến 80% số người được hỏi đều trả lời là tổ chức KTNB trong doanh nghiệp là phức tạp và tốn kém và có đến hơn 70% trả lời hoạt động của ban kiểm soát tương tự như hoạt động của KTNB. Hơn nữa, có đến 56% số người được hỏi cho rằng không cần thiết phải KTNB nếu đã được kiểm toán bởi KTĐL (Phụ lục 2.22). Điều này cho thấy nhận thức của các nhà quản lý và người sử dụng thông tin từ KTNB còn rất hạn chế, họ mới chỉ quan tâm đến thông tin tài chính và thông tin được lượng hóa mà còn chưa đề cao đến hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý. Hơn nữa, khi tổ chức KTNB, nếu nhà quản lý đặt nặng việc xem xét chi phí vận hành KTNB thì rất khó có thể tổ chức được một cách hiệu quả. Đây cũng có thể coi là lý do chính để không tổ chức KTNB trong một số tập đoàn kinh tế của Việt Nam.
Thứ hai: Bản thân các bộ phận KTNB trong các tập đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng đối với chức năng kiểm tra kiểm soát trong các tập đoàn. Có đến 66% các đơn vị có tổ chức KTNB trong các tập đoàn đưa ra câu trả lời là đội ngũ KTVNB trong đơn vị mình còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu thực tế (Phụ lục 2.22). Hơn nữa, về chất lượng KTVNB trong các tập đoàn đều có những vấn đề cần xem xét. Phần lớn các KTVNB đều được tuyển dụng từ bộ phận kế toán hoặc chuyển từ các công ty kiểm toán độc lập. Điều này dẫn đến những ảnh hưởng trong nhận thức của KTVNB về nội dung và phương pháp kiểm toán. Do xuất phát từ những chuyên gia am hiểu về kế toán, các KTVNB này có xu hướng thực hiện KTNB mang nặng tính "kiểm tra kế toán", hướng nhiều đến các thông tin tài
chính nhiều hơn. Đối với các KTVNB đã từng làm kiểm toán độc lập, phong cách làm việc có thể hiện tính chuyên nghiệp hơn nhưng lại mang nhiều kỹ thuật của kiểm toán độc lập vào thực hiện KTNB. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc đạt được những mục tiêu lớn nhất của KTNB. Đây là một vấn đề lớn để các KTVNB phải thay đổi nhận thức và đặc biệt là phải thay đổi thói quen trong quá trình tác nghiệp.
Thứ ba: Hầu hết các đơn vị khi tổ chức KTNB đều dập khuôn máy móc những quy định của nhà nước về tổ chức KTNB. Những quy định này khi không xây dựng dựa trên đặc điểm riêng của đơn vị sẽ gây khó khăn cho KTNB. Hơn nữa, khi chuyển đổi từ tổng công ty 91 sang mô hình kinh doanh mới là tập đoàn, các đơn vị này vẫn chưa thay đổi quy chế kiểm toán trước đây cho phù hợp với điều kiện mới. Nguyên nhân này ảnh hưởng tới phạm vi, chức năng, nội dung công tác kiểm toán và vị trí pháp lý của KTNB trong tổ chức bộ máy của tập đoàn. Chính vì nguyên nhân này nên KTNB nhiều tập đoàn vẫn đang tiến hành kiểm toán mang tính hành chính và hình thức.
Thứ tư: KTNB thiếu một chiến lược hoạt động lâu dài, một kế hoạch chiến lược cho hoạt động KTNB. Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán năm trong KTNB, rất nhiều tập đoàn xây dựng theo hướng nếu năm trước phát sinh vấn đề thì năm nay lựa chọn khách thể đó để kiểm toán. Cách thức lựa chọn kiểm toán mang tính tình huống đó đã không thể hiện một "tầm nhìn" của người tổ chức KTNB. Các tập đoàn có chiến lược phát triển lâu dài, song song với chiến lược phát triển đó luôn cần có một công cụ kiểm tra kiểm soát hữu hiệu. Chính vì vậy, KTNB cần xây dựng kế hoạch chiến lược phù hợp với chiến lược của tập đoàn.
Thứ năm: Công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán trong KTNB tại các tập đoàn còn nhiều hạn chế. Để có thể hoàn thiện được tổ chức KTNB, một đòi hỏi tất yếu là phải phát hiện được những nhược điểm trong quy trình thực hiện, trong cách thức tổ chức. Để có thể tiến hành công việc này một cách chuyên nghiệp, bản thân mỗi hệ thống kiểm toán phải có sẵn những chức năng liên quan đến kiểm soát chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, có thể thấy trong tổ chức KTNB tại các tập đoàn kinh tế của Việt Nam đây là một một khâu còn rất nhiều hạn chế. Các tập đoàn được tác giả khảo sát đều chưa có một hệ thống định hình rõ kiểm soát chất lượng kiểm toán. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến hiểu quả hoạt động của KTNB. Điều này dẫn đến việc xóa bỏ KTNB hoặc ghép KTNB với một bộ phận khác trong đơn vị.
Kết luận Chương 2
KTNB đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với hoạt động của các đơn vị hoạt động với quy mô lớn như các tập đoàn kinh tế. Trong quá trình hoạt động, nhiều tập đoàn còn cân nhắc đến việc tổ chức KTNB. Phân tích của Luận án khẳng định tính tất yếu phải tổ chức KTNB trong tập đoàn kinh tế và chỉ rõ việc không tổ chức KTNB trong các tập đoàn là một sự thiếu vắng của một phương sách hiệu quả của quản lý.
Trong Chương này, Tác giả đã xem xét quy trình thực hiện kiểm toán của KTNB trong các tập đoàn kinh tế, luận giải về những điểm đạt được và chưa đạt được của quy trình thực hiện. Đồng thời, Tác giả cũng phân tích mô hình tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn kinh tế. Qua phân tích, Tác giả đã phát hiện nhiều điểm yếu của tổ chức KTNB trong các tập đoàn: cứng nhắc, vẫn mang khuôn mẫu của tổ chức KTNB trong các tổng công ty, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán còn chưa thực sự hiệu quả, thiếu cơ sở thực hiện kiểm toán, mới chỉ chú trọng kiểm toán tài chính mà chưa thực hiện kiểm toán hoạt động theo đúng nội dung của kiểm toán hoạt động. Hơn nữa, nguyên nhân của phần lớn các tồn tại đều mang tính chủ quan, do nhận thức của người thực hiện kiểm toán, bộ phận được kiểm toán và người sử dụng thông tin từ kiểm toán.
Đánh giá những điểm đạt được và những hạn chế trong tổ chức KTNB trong các tập đoàn sẽ là căn cứ để Tác giả nghiên cứu và đề xuất các giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh tế.