Đặc Điểm Của Tập Đoàn Kinh Tế Ảnh Hưởng Đến Việc Thiết Kế Và Vận Hành Của Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Tại Tập Đoàn


Thứ hai, liên kết bảo vệ sản xuất trong nước, mở rộng củng cố phát triển trên thị trường thế giới, tăng sức cạnh tranh với các quốc gia khác, hỗ trợ nhà nước định hướng chiến lược phát triển quốc gia.

Thứ ba, khắc phục khả năng hạn chế vốn của công ty cá biệt, liên kết tập trung vốn vào những dự án có hiệu quả tạo ra sức mạnh quyết định cho phát triển tập đoàn, từ đó thu được lợi nhuận tối đa cho mỗi thành viên và cả tập đoàn. Tăng tốc độ huy động vốn thông qua sự chuyển dịch vốn nhanh giữa công ty mẹ và các công ty thành viên, giữa các công ty thành viên với nhau. Sự chuyển dịch này hạn chế tình trạng thừa, thiếu vốn cục bộ, vốn của đơn vị thành viên luôn sử dụng ở những nơi hiệu quả nhất

Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất, hỗ trợ thông tin cho các công ty thành viên. Hoạt động này cần rất nhiều vốn, con người, cơ sở vật chất mà mỗi đơn vị thành viên riêng rẽ khó có khả năng huy động được. Vì vậy chỉ có trên cơ sở liên kết mới tạo được tiềm năng nghiên cứu khoa học, tập trung được nguồn lực vào thực hiện các mục tiêu chiến lược có lợi cho các thành viên và tập đoàn.

Thứ năm, những thông tin và kinh nghiệm sẽ được truyền tải rộng rãi trong tập đoàn, tạo cơ hội cho những thành viên học hỏi, tránh những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra, đây là thế mạnh của khi liên kết thành tập đoàn.

Thứ sáu, tăng cường hiệu quả kinh tế, sử dụng lợi thế về qui mô, kết hợp các ưu thế của sự chuyên môn hóa với hoạt động kinh doanh đa dạng, tách biệt được quản lý hành chính và quản lý kinh doanh.

Ở Việt Nam, đã từ rất lâu vào những năm 70 và đầu những năm 80, ý tưởng thành lập tập đoàn kinh tế đã bắt đầu xuất hiện bằng việc thành lập các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty Nhà Nước, qua quá trình phát triển đã có những thành công và cả những thất bại từ đó Nhà Nước đã có được những bài học đáng quý. Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế và đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà Nước đã nhận thấy được tầm quan trọng của các tập đoàn trong việc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với hy vọng các tập đoàn sẽ là “xương sống” cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó trong thời gian qua Nhà Nước đã thành lập thí điểm 8 tập đoàn phát triển từ các tổng công ty Nhà Nước, tuy nhiên qua quá trình hoạt động còn có rất nhiều ý kiến khác nhau về mô hình này, thậm chí không thống nhất cả về khái niệm và tiêu chí. Để có được những tập đoàn kinh tế vững mạnh như mục tiêu kỳ vọng thì cần phải có sự phối hợp linh hoạt, chủ động giữa Nhà nước và doanh nghiệp, trong đó Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện môi trường, điều kiện, tác động thúc đẩy quá trình hình thành. Về phía doanh nghiệp cần phải có những giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng lực nội tại, hoàn thiện cấu trúc để trở thành những tổ hợp có qui mô lớn, năng lực cạnh tranh cao và là trụ cột của nền kinh tế.

1.3.1.2. Phân loại tập đoàn kinh tế

Để thiết kế hệ thống kiểm soát nôi bộ theo mô hình tập đoàn kinh tế, các nhà quản lý cần phải nắm được các hình thức hoạt động của tập đoàn trên thực tế hiện nay, từ đó tìm ra những điểm phù hợp để ứng dụng vào việc quản lý tập đoàn của mình. Bên cạnh đó, cũng giúp Nhà nước nhìn nhận, quản lý và đưa ra các quyết sách phù hợp với từng loại tập đoàn. Có rất nhiều tiêu chí để phân loại tập đoàn hiện nay và được cụ thể theo bảng dưới đây.


Bảng 1.1: Phân loại tập đoàn kinh tế

Tiêu thức

Các loại tập đoàn theo tiêu thức

Mô tả

Theo phương thức hình thành

Liên kết ngang

Liên kết các thành viên trong cùng một ngành, mô hình

này tiềm ẩn rủi ro rất cao, hiện nay rất ít phổ biến.

Liên kết dọc

Phát triển theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, các công ty con có thể phát triển thành công ty cháu để

thực hiện các hoạt động phụ trợ.

Liên kết hỗn hợp

Hoạt động đa ngành, đa nghề để phân tán rủi ro, nhưng phát triển trọng tâm là ngành sản xuất kinh

doanh chính.

Theo hình thức sở hữu

Tập đoàn tư nhân

Tập đoàn có nguồn gốc từ sở hữu gia đình hoặc sở hữu tư nhân, mô hình này rất phát triển ở Hàn Quốc,

Nhật Bản.

Tập đoàn Nhà Nước

Mô hình này Nhà nước nắm 100% vốn hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Ở Việt Nam Nhà Nước nắm giữ 100% vốn cổ phần ở công ty mẹ hoặc gián tiếp nắm giữ quyền kiểm soát của các đơn vị thành

viên.

Tập đoàn đa sở hữu

Là hình thức kết hợp giữa sở hữu Nhà Nước và sở hữu tư nhân dựa trên các liên kết về tài chính, vốn, công

nghệ và tài nguyên.

Theo bản chất liên kết

Liên kết mềm

Các thành viên trong tập đoàn có quan hệ rất lỏng lẻo thông qua các thỏa thuận và cam kết hợp tác, các thành viên có tính độc lập cao. Tập đoàn có một ban quản trị điều hành các hoạt động theo một chiến lược

chung, từng công ty thành viên vẫn giữ tính độc lập về tài chính, thương mại, sản xuất

Liên kết cứng

Có liên kết chặt chẽ về vốn, công ty mẹ nắm giữ cổ phần của các công ty con hoặc công ty cháu, các công ty thành viên nắm giữ cổ phần của nhau, từ đó để tăng cường kiểm soát, liên kết các thành viên trong tập

đoàn.

Theo tính chất chuyên môn hóa

Tập đoàn

chuyên ngành hẹp

Các tập đoàn hoạt động chuyên sâu, các công ty trong

cùng một ngành phối hợp chặt chẽ với nhau để khai thác thế mạnh chuyên môn

Tập đoàn kinh doanh tổng hợp

đa ngành

Hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng đều

có một ngành, lĩnh vực kinh doanh làm mũi nhọn, hạt nhân.

Theo phạm vi hoạt động

Tập đoàn quốc

gia

Hoạt động trong phạm vi của một quốc gia

Tập đoàn

xuyên quốc gia

Hoạt động trên nhiều lãnh thổ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

Hoàn thiện Hệ thống kiểm soát nội bộ tại tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam - 6

Trên đây là những quan điểm nhìn nhận khác nhau về tập đoàn kinh tế, tuy nhiên dù có nhìn nhận trên quan điểm nào thì tập đoàn kinh tế cũng là một hình thức liên kết của nhiều công ty, hoạt động trong một ngành hay nhiều ngành khác nhau, trong một


nước hay nhiều nước để tiến hành quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua sự điều hành chung. Đây là một tổ chức vừa có chức năng kinh doanh vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân mà chỉ có các thành viên trong tập đoàn mới có tư cách pháp nhân.

1.3.2 Đặc điểm của Tập đoàn kinh tế ảnh hưởng đến việc thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn

1.3.2.1 Đặc điểm tổ chức và hoạt động tập đoàn với thiết kế và vận hành HTKSNB

Để thiết kế và vận hành hệ thống KSNB hiệu quả theo mô hình kinh doanh tập đoàn đáp ứng được các mục tiêu của tổ chức thì cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc đặc điểm hoạt động của tập đoàn, chính những đặc điểm này sẽ quyết định xây dựng môi trường kiểm soát, thủ tục kiểm soát và xây dựng được hệ thống thông tin (đặc biệt là hệ thống thông tin kế toán) phù hợp với mô hình này. Các đặc điểm được biểu hiện cụ thể:

Thnht, Về địa vị pháp lý, tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân mà chỉ là tổ hợp các công ty có tư cách pháp nhân, tập đoàn không chịu trách nhiệm liên đới về mặt pháp lý trong quá trình hoạt động với các công ty thành viên. Nghĩa là nếu có một thành viên trong tập đoàn vi phạm pháp luật thì cũng sẽ không ảnh hưởng gì đến công ty mẹ, các công ty con khác dưới góc độ pháp lý. Mỗi một đơn vị thành viên trong tập đoàn là một pháp nhân độc lập. Công ty mẹ và các công ty con trong tập đoàn đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Công ty mẹ và các công ty thành viên tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật về các khoản đầu tư trong giới hạn nhất định theo điều lệ của mỗi tập đoàn và quyết định của hội đồng quản trị. Vì vậy việc tổ chức hệ thống KSNB tại tập đoàn phải phù hợp với điều kiện của từng đơn vị thành viên và theo định hướng kiểm soát tại công ty mẹ. Công ty mẹ và các công ty thành viên tổ chức hệ thống KSNB riêng cho mình tuỳ thuộc vào qui mô hoạt động, phạm vi hoạt động. Hơn nữa tập đoàn không có tư cách pháp nhân nên việc thiết kế các thủ tục kiểm soát không phải là kiểm soát việc chấp hành của cấp dưới đối với cấp trên mà nhìn nhận nó dưới góc độ là chủ sở hữu kiểm soát hiệu quả hoạt động của đơn vị thông qua vốn góp.

Thhai, Cơ cấu tổ chức tập đoàn, cơ cấu tổ chức của tập đoàn đa dạng, không có khuôn mẫu thống nhất. Cơ cấu tổ chức được xây dựng trên nền tảng văn hóa, đặc điểm ngành nghề kinh doanh, phong cách quản lý, chiến lược xây dựng và phát triển của mỗi tập đoàn. Mỗi một tập đoàn có đặc tính riêng, có cách quản lý riêng, với mức độ tập trung và phân cấp quản lý khác nhau. Tuy nhiên các tập đoàn đều có đặc điểm chung về cơ cấu tổ chức quản lý là thực hiện quản lý theo mô hình đa khối trong đó có một doanh nghiệp giữ một vai trò trụ cột. Doanh nghiệp này có quan hệ với các thành viên không phải mang tính chất hành chính hay cấp trên, cấp dưới mà là mối quan hệ gắn kết về lợi ích kinh tế và đầu tư tài chính, không có tổ chức bộ máy quản lý cho cả tập đoàn, đơn vị thành viên trong tập đoàn đều có tư cách pháp nhân riêng, có quyền lực riêng. Việc điều hành của cả tập đoàn thực hiện thông qua vai trò trụ cột của đơn vị đứng đầu, đơn vị này thường nắm giữ số vốn đủ lớn của đơn vị thành viên để có thể thực hiện quyền chi phối và kiểm soát về tài

36

chính và chiến lược phát triển, tạo thành mô hình công ty mẹ - công ty con, đây là hình thức phổ biến của các tập đoàn kinh tế trên thế giới. Bằng việc nắm đa số vốn điều lệ từ công ty con, công ty mẹ sẽ đảm nhận chức năng như phát triển thị trường, ứng dụng công nghệ mới, điều phối toàn tập đoàn vận động đến mục tiêu đã định sẵn thông qua chiến lược chung, thông qua tỷ lệ vốn góp hay những quan hệ khác. Các công ty con hoạt động độc lập với công ty mẹ, quan hệ với công ty mẹ thông qua vốn đầu tư, công nghệ, thị trường. Các công ty con họat động độc lập trước pháp luật, có thể đầu tư vào nhau, thậm chí công ty con có thể đầu tư ngược trở lại công ty mẹ.

Các công ty con được phân công hoạt động sản xuất kinh doanh theo ngành nghề, theo sản phẩm bán ra hoặc theo khu vực hoạt động, không trùng lắp và không cạnh tranh nội bộ. Hoạt động kinh doanh của tập đoàn theo mô hình đa khối thì quyền lực và trách nhiệm trong tập đoàn được phân bổ rõ rệt, các thủ tục kiểm soát cũng phải thiết kế theo và được cụ thể: Mỗi một công ty con là một khối, mỗi một công ty cháu chỉ sản xuất một loại sản phẩm ở một nước nhất định, là một đơn vị kinh doanh của khối. Mỗi một đơn vị kinh doanh của khối đều có các phòng chức năng để tập trung sản xuất có hiệu quả một sản phẩm nhất định. Mỗi khối lại chịu trách nhiệm về hoạt động của tập đoàn trong một khu vực địa lý nhất định. Với việc quản lý theo mô hình đa khối, các nhà quản lý của tập đoàn phải hoạt động phục vụ các mục tiêu dài hạn của tập đoàn, tập trung chủ yếu vào tăng lợi nhuận chứ không phải tăng doanh số, hướng tập đoàn phát triển bền vững hơn. Như vậy, với sự liên kết phức tạp của mô hình kinh doanh tập đoàn đòi hỏi hệ thống kiểm soát nội bộ phải được thiết kế hợp lý, tránh hiện tượng kiểm soát chồng chéo hoặc bỏ sót. Tập trung xây dựng hệ thống KSNB tại công ty mẹ có mối quan hệ với hệ thống KSNB tại các đơn vị thành viên. Mục tiêu KSNB với mô hình liên kết này là đảm bảo được hiệu quả đồng vốn bỏ ra từ công ty mẹ và các công ty con, đảm bảo công ty mẹ sẽ chi phối, kiểm soát, định hướng hoạt động của các công ty con theo mục tiêu, chiến lược kinh doanh của cả tập đoàn, phù hợp với điều lệ của công ty mẹ - công ty con và pháp luật hiện hành. Thiết kế hệ thống thông tin và thủ tục kiểm soát sao cho kiểm định được từng ngành sản xuất, từng khu vực, phân bố trách nhiệm đối với hoạt động của từng cá nhân, thúc đẩy hoạt động của từng cá nhân đến một định chuẩn nhất định. Thủ tục kiểm soát từ công ty mẹ xuống các công ty con phải đảm bảo tính chặt chẽ, nhưng linh hoạt để đáp ứng được mục tiêu chung của cả tập đoàn.

Thba, về qui mô và phạm vi hoạt động, hầu hết các tập đoàn đều có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rất rộng. Qui mô của tập đoàn là rất lớn thể hiện ở một số chỉ tiêu như tổng số vốn, tài sản hay doanh thu, lao động. Phạm vi hoạt động của tập đoàn kinh tế rất rộng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Các tập đoàn lớn thường có chiến lược linh hoạt trong đầu tư, sản xuất và phân phối sản phẩm trên nhiều vùng địa lý khác nhau. Đây cũng là một trong những phương pháp phân tán rủi ro theo không gian địa lý. Với đặc điểm này công ty mẹ thuộc tập đoàn phải có những chiến lược kiểm soát mang tính định hướng và đảm bảo thống nhất trong toàn tập đoàn từ các chính sách về tài chính, nhân sự, vốn, kế hoạch, đầu tư cũng như các chính sách thủ tục đi kèm.

37

Thtư, về quan hệ liên kết và quản lý vốn, bên cạnh việc các công ty thành viên trong tập đoàn có mối quan hệ về công nghệ, kỹ thuật, thị trường, thương hiệu… thì sự liên kết chủ yếu trong tập đoàn là thông qua quan hệ về đầu tư vốn. Vốn của tập đoàn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được bảo toàn và phát triển không ngừng, đẩy nhanh tốc độ tích tụ và tập trung vốn cho tập đoàn. Nguồn vốn được huy động từ các công ty thành viên và được tập trung đầu tư vào những công ty, những dự án có hiệu quả cao. Vốn được hình thành từ tích lũy nội bộ nền kinh tế. Ngoài ra vốn tập đoàn còn được hình thành từ đầu tư nước ngoài thông qua các dự án đầu tư liên doanh, liên kết, phát hành trái phiếu cổ phiếu và vay vốn nước ngoài. Tại một số nước, nội bộ tập đoàn thường có các ngân hàng thương mại là trung gian tài chính giữa các thành viên trong tập đoàn, phân phối vốn theo yêu cầu của các công ty thành viên. Trong mối quan hệ giữa công ty mẹ - công ty con: công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối ở các công ty con qua mức độ đầu tư vốn. Các công ty con tiếp tục lại đầu tư vào công ty cháu. Chuỗi đầu tư cứ tiếp tục như vậy và hình thành mối quan hệ cơ bản, chủ đạo. Hầu hết các công ty mẹ trong tập đoàn thường nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Quyền lợi kinh tế của công ty mẹ được đảm bảo thông qua chế độ phân chia lợi nhuận theo phần vốn góp. Bên cạnh việc liên kết về vốn theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì còn có cả liên kết tài chính. Tỷ lệ góp vốn hoặc cổ phần của công ty mẹ chưa đủ ở mức chi phối các công ty tham gia liên kết. Với số vốn lớn, tập trung, thống nhất chiến lược cho các đơn vị thành viên thì tập đoàn có khả năng chi phối và cạnh tranh mạnh trên thị trường, mở rộng nhanh chóng qui mô sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị hiện đại, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó đạt doanh thu lớn. Điều đó đã tạo ra lợi thế hơn hẳn với các doanh nghiệp đơn lẻ khi tạo được sức mạnh tập trung, tạo sự liên kết linh hoạt giữa các đơn vị thành viên. Đặc điểm này đòi hỏi phải xây dựng hệ thống KSNB mang tính kiểm soát dưới góc độ là chủ sở hữu kiểm soát mà không đơn thuần là kiểm soát hành chính của cấp trên đối với cấp dưới. Để sử dụng hiệu quả của đồng vốn của tập đoàn cũng cần xây dựng tiêu chí bắt buộc như tỷ lệ lợi nhuận trên đồng vốn phải đạt. Với đặc điểm này hệ thống KSNB tập trung vào việc kiểm soát đồng vốn từ khi bỏ ra cho đến quá trình sử dụng, thu hồi và sinh lời.

Thnăm, về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Các tập đoàn hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực để phân tán rủi ro, mạo hiểm vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, tránh các dào cản của luật pháp về độc quyền, bảo đảm cho hoạt động của tập đoàn luôn được bảo toàn và hiệu quả đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng lao động của tập đoàn. Chiến lược sản phẩm và hướng đầu tư luôn thay đổi phù hợp với điều kiện phát triển của tập đoàn và môi trường kinh doanh, tuy nhiên hướng phát triển đa ngành, đa lĩnh vực thì vẫn lấy một ngành sản xuất kinh doanh chính làm nòng cốt cho chiến lược phát triển với những sản phẩm đặc trưng của tập đoàn, nhằm tận dụng các nguồn lực, phân tán rủi ro. Bên cạnh đó cũng còn có những tập đoàn kinh doanh trong một lĩnh vực tương đối hẹp nhằm khai thác thế mạnh về chuyên môn, công nghệ. Hiện nay do sức ép cạnh tranh toàn cầu, nhiều tập đoàn không ngừng mở rộng cả về qui mô và

38

phạm vi hoạt động. Tính chất đa ngành, đa lĩnh vực đang có nhiều hướng vượt trội hơn so với tính chất chuyên ngành. Việc đa dạng hóa sản phẩm, thị trường giúp các tập đoàn phân tán rủi ro, đồng thời tận dụng triệt để các ưu thế của từng bộ phận chuyên môn hóa trong cơ cấu tập đoàn. Vì vậy việc thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ cũng phải theo chức năng hoạt động hoặc theo nhóm lĩnh vực hoạt động khác nhau. Các thành viên của Ban kiểm soát và người lãnh đạo phải có kiến thức rộng với nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau của tập đoàn kinh tế

Thsáu, về chế độ sở hữu, các tập đoàn có tính chất đa chế độ sở hữu, Công ty mẹ và các công ty con có thể là doanh nghiệp Nhà Nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh với công ty nước ngoài…, vì vậy ứng với từng tính chất sở hữu thì những công ty này sẽ hoạt động theo luật tương ứng, theo điều lệ chung của công ty mẹ - con và theo điều lệ riêng của mỗi công ty. Thông thường công ty mẹ - con có chế độ sở hữu hỗn hợp và được tổ chức thành công ty cổ phần. Trong một trường hợp đặc biệt công ty mẹ và các công ty con đều là doanh nghiệp Nhà nước tạo thành một tập đoàn kinh tế Nhà nước có tính chất sở hữu đồng nhất. Bên cạnh đó tập đoàn kinh tế còn phát triển theo sở hữu tư nhân hoặc sở hữu gia đình. Đối với tập đoàn có sở hữu Nhà nước được Nhà nước giao vốn để hoạt động, được ưu đãi về mọi thứ, luôn được nhà nước bao bọc, mập mờ ông chủ sở hữu, khó qui trách nhiệm, mục tiêu của tập đoàn không chỉ là hiệu quả kinh doanh mà còn cả mục tiêu về chính trị xã hội, làm nhiệm vụ công ích, cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả tùy theo mục tiêu của tập đoàn trong từng thời kỳ thì dẫn đến đồng vốn của Nhà nước bị thất thoát, kéo theo các mục tiêu khác cũng không đạt. Đối với tập đoàn chủ sở hữu tư nhân, tiền vốn là của cá nhân bỏ ra, trách nhiệm qui rõ ràng cho nhà quản lý cấp cao nhất, hiệu quả kinh doanh đặt lên hàng đầu nên thủ tục kiểm soát nội bộ phải rất linh hoạt, nhanh chóng. Tuy nhiên vẫn phải thỏa mãn được các nguyên tắc cơ bản trong kiểm soát.

Như vy, từ những đặc điểm riêng có của mô hình hoạt động tập đoàn kinh tế đã phân tích ở trên đây cho thấy được vai trò phải duy trì hệ thống KSNB trong tập đoàn. Mỗi một tập đoàn có đặc điểm kinh doanh riêng, việc nghiên cứu kỹ những đặc điểm của tập đoàn mình để từ đó thiết kế hệ thống KSNB phù hợp với đặc điểm đó là rất cần thiết, việc này cần phải đánh giá và làm thường xuyên để đáp ứng với những thay đổi của quá trình hoạt động kinh doanh, đảm bảo đạt được các mục tiêu hoạt động của tập đoàn. Hiện nay do quá trình quốc tế hóa và cạnh tranh gay gắt, các tập đoàn đã và đang phải cải tổ cơ cấu, tăng cường kiểm soát nội bộ. Phối hợp kinh doanh trên tất cả các mặt, các chức năng và ở mọi phương diện. Phối hợp chiến lược khu vực hóa với toàn cầu hóa, chiến lược mũi nhọn với chiến lược mũi nhọn với chiến lược đa dạng hóa, tăng cường vai trò trung tâm và sự chi phối của công ty tài chính nhằm hạn chế khả năng bị thôn tính

1.3.2.2 Đặc điểm về vốn trong tập đoàn kinh tế với thiết kế và vận hành HTKSNB

Kiểm soát quan trọng nhất với mô hình hoạt động tập đoàn là kiểm soát về vốn. Nó là khả năng và hoạt động của một chủ thể (chủ thể kiểm soát) chi phối định hướng các quyết định về chính sách tài chính và hoạt động của một chủ thể khác nhằm đạt được mục tiêu của chủ thể kiểm soát. Bản chất của tập đoàn kinh tế là mối quan hệ giữa công

39

ty mẹ và công ty con, là mối quan hệ đầu tư vốn. Do vậy kiểm soát vốn là một công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu quản lý của công ty mẹ đối với công ty con trong mối quan hệ đầu tư vốn. Đặc điểm lớn nhất của tập đoàn là khả năng tích tụ và tập trung vốn, quản lý đồng vốn có hiệu quả là điều không dễ. Tìm hiểu rõ về đặc điểm tài chính trong tập đoàn là rất cần thiết cho việc thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ, những đặc điểm đó được thể hiện.

Thnht, Sở hữu vốn trong tập đoàn là rất đa dạng, vốn tập trung ở các công ty mẹ và các công ty thành viên, liên kết vốn trong tập đoàn rất phức tạp. Công ty mẹ đầu tư trực tiếp vào công ty con và công ty cháu. Công ty con, cháu đầu tư ngược trở lại công ty mẹ, các công ty con cùng cấp đầu tư lẫn nhau. Vì vậy cần phải xây dựng thủ tục kiểm soát và truyền đạt thông tin về các thủ tục đó đến toàn tập đoàn để mọi thành viên trong tập đoàn hiểu rõ mức độ chi phối, quyền hạn và trách nhiệm ở các mức độ khác nhau của công ty mẹ với các công ty con, cháu và ngược lại. Ban kiểm soát là đơn vị đại diện cho chủ sở hữu vốn, thực hiện chức năng kiểm soát đối với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của HĐQT trong việc quản lý và thực hiện các mục tiêu phát triển của tập đoàn, do đó đơn vị này cần phải độc lập với hội đồng quản trị. Trong mỗi đơn vị thành viên, để kiểm soát vốn chặt chẽ thì cần phải tách bạch chức năng thực hiện các hoạt động tài chính và chức năng kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính.

Thhai, trong tập đoàn kinh tế quyền sở hữu và quyền điều hành vốn có sự tách biệt nhất định. Chủ thể sở hữu, chủ thể đầu tư vốn không tham gia điều hành các công ty mà chỉ quyết định đầu tư vốn và thực hiện quản lý vốn đầu tư của mình thông qua thực hiện quyền kiểm soát. Vì vậy tại các công ty mà chủ sở hữu có vốn cần phải cử người đại diện có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức đồng thời giao chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm cho họ để họ phát huy vai trò là người giám sát đồng vốn của chủ sở hữu trong công ty mà họ đầu tư vốn. Trong mỗi một đơn vị thành viên công tác tài chính phải tuân thủ chế độ, chính sách, nguyên tắc, thể lệ được qui định trong các văn bản của Nhà nước, của công ty mẹ và của bản thân các đơn vị thành viên.

Thba, về công khai, minh bạch, điều chỉnh cơ cấu vốn, trong tập đoàn vốn có thể điều chỉnh và cơ cấu lại bằng cách xem xét số vốn tồn đọng, rút bớt những khoản vốn không hiệu quả để tập trung vào những khoản vốn mang lại hiệu quả (cách thức là tập trung vốn cho những thành viên có khả năng phát triển tốt, hỗ trợ cho các doanh nghiệp chủ chốt trong tập đoàn). Vốn trong tập đoàn được kiểm soát bởi nhiều chủ thể, do vậy cần phải có sự công khai, minh bạch các thông tin về quá trình điều chuyển và sử dụng vốn trong tập đoàn. Hội đồng quản trị là đại diện sở hữu vốn của tập đoàn thực hiện điều hành tập đoàn thông qua kiểm soát tài chính. Qua đó sẽ đánh giá được kết quả hoạt động của tập đoàn, duy trì được các hoạt động đang tiến hành, phát hiện các nguyên nhân sai sót từ đó điều chỉnh phù hợp và có căn cứ hoạch định mục tiêu của tập đoàn cũng như của các đơn vị thành viên trong tương lai.

Thtư, vốn chịu sự điều tiết của cơ chế quản lý tài chính, Tập đoàn là một tổ hợp các doanh nghiệp hoạt động đa ngành, đa nghề trên nhiều lĩnh vực, các thành viên trong tập đoàn là một tổ chức độc lập nên sự quản lý vốn không thể bằng các chỉ thị, mệnh lệnh mang tính hành chính mà phải quản lý thông qua các chính sách và cơ chế quản lý tài


chính, từ đó tác động tới các hoạt động cụ thể của từng đơn vị thành viên vừa đảm đảm bảo tính độc lập, tự chủ của từng đơn vị thành viên vừa đảm bảo mục tiêu, chính sách chung của tập đoàn. Để thực hiện được điều này thì kiểm soát vốn được sử dụng như một công cụ điều hành trong tập đoàn kinh tế thông qua việc công ty mẹ thực hiện quyền kiểm soát với công ty con để hướng tới mục tiêu phát triển chung tập đoàn. Trong tập đoàn công ty mẹ và các đơn vị thành viên là những pháp nhân độc lập nên có quan hệ bình đẳng trong việc mua bán, trao đổi, cấp tín dụng, thuê và cho thuê, khi thực hiện phải thông qua bằng những hợp đồng như các doanh nghiệp khác ngoài tập đoàn. Vì vậy các tổ thủ tục kiểm soát phải được thiết kế và gắn kết như một tổ chức độc lập, chịu trách nhiệm về mọi mặt trước Nhà nước.

Tập đoàn có cơ cấu sở hữu vốn đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, nên việc phân phối lợi ích (phân phối nguồn lực, phân phối lợi nhuận) trong toàn bộ tập đoàn là rất quan trọng. Để thực hiện điều này có hiệu quả cần xây dựng các nguyên tắc, qui chế, qui trình, thủ tục phân phối khoa học và hợp lý đúng theo qui định của luật pháp và của tập đoàn, căn cứ vào mức đầu tư của từng chủ thể (phần vốn góp) làm tiêu chí chính để phân phối.

Thnăm, Vốn trong tập đoàn hàm chứa rủi ro rất cao, nó là một trạng thái biểu hiện nguy cơ bất ổn xảy ra trong quá trình hoạt động đầu tư không đạt được mục tiêu như dự kiến, nó khiến cho chủ thể đầu tư lâm vào trạng thái bất ổn như thua lỗ, nợ nần thậm chí phá sản. Vốn trong tập đoàn chịu tác động của qui luật kinh tế (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ) tác động và chi phối đến hoạt động tài chính như một yếu tố khách quan. Vì vậy kiểm soát rủi ro vốn được coi là một nội dung quan trọng và không thể thiếu trong nội dung kiểm soát trong tập đoàn kinh tế.

Tìm hiểu về đặc điểm về vốn trong tập đoàn kinh tế là nhiệm vụ hết sức quan trọng của những nhà quản lý từ đó nhà quản lý sẽ thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ sao cho hiệu quả, phù hợp với đặc điểm hoạt động động kinh doanh, cơ cấu tổ chức và tài chính trong tập đoàn. Việc duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực sẽ giúp tập đoàn đạt được các mục tiêu như đã định.

1.3.3 Phân biệt hệ thống kiểm soát nội bộ tại tập đoàn kinh tế với doanh nghiệp

đơn l

Hệ thống KSNB khi nghiên cứu phải gắn với một đơn vị cụ thể, tuy nhiên mỗi một đơn vị có những đặc điểm riêng đòi hỏi nhà quản lý cần nhận biết những đặc điểm riêng đó để thiết kế hệ thống KSNB phù hợp. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế đã nghiên cứu tại mục 1.3.2 cho thấy có những điểm khác biệt căn bản với doanh nghiệp đơn lẻ được cụ thể trong bảng dưới đây

Bảng 1.2: Phân biệt tập đoàn kinh tế với doanh nghiệp đơn lẻ

Tiêu thức

Tập đoàn kinh tế

Doanh nghiệp đơn lẻ

Địa vị pháp lý

Tập đoàn không có tư cách pháp nhân nhưng tổ hợp công ty mẹ và các công ty con trong tập đoàn lại có tư cách pháp nhân và bình

đẳng nhau trước pháp luật

Có tư cách pháp nhân độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của mình

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/11/2022