Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Và Tổ Chức Bộ Máy Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại


rủi ro kịp thời; báo cáo lên các cấp quản lý thích hợp và đưa ra giải pháp để khắc phục những hạn chế nếu có của hệ thống KSNB ngân hàng.

1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại

Có thể phân chia các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ NHTM thành hai nhóm cơ bản sau:

1.2.3.1. Nhân tố bên trong

Nhân tố bên trong là các nhân tố nội tại, có liên quan tới đặc điểm về tổ chức và hoạt động của NHTM.

- Mô hình và cơ cấu tổ chức của NHTM

Sự đa dạng về mô hình và cơ cấu sở hữu của các loại NHTM như NHTMNN, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, hoặc NHTM nước ngoài đã đặt ra những yêu cầu riêng về quản trị và điều hành. Điều này cũng tác động tới hoạt động kiểm toán nội bộ, đặc biệt về tổ chức bộ máy và nội dung công tác kiểm toán trong lĩnh vực này.

- Mục tiêu hoạt động của NHTM

Việc đặt ra mục tiêu phù hợp sẽ định hướng cho các bộ phận bên trong ngân hàng hoạt động hiệu quả. Trong nhóm các mục tiêu chung về quản trị và điều hành ngân hàng thì mục tiêu về kiểm soát nội bộ sẽ tác động trực tiếp tới công việc kiểm toán nội bộ.Theo đó quá trình thực hiện mục tiêu sẽ tạo động lực để các cá nhân thể hiện sự nỗ lực nhằm đạt mục tiêu đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

- Quy mô tổ chức của NHTM

Với đặc thù quy mô hoạt động rộng khắp, phân tán và số lượng nhân sự nhiều nên việc bố trí công việc kiểm toán và sắp xếp các vị trí phù hợp với khả năng của từng người phải được cân nhắc một cách khoa học.

- Cơ sở vật chất và việc áp dụng công nghệ thông tin

Quá trình thực hiện công việc kiểm toán hiệu quả không phụ thuộc phần lớn vào cơ sở vật chất và sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Điều này giúp nâng cao chất lượng công việc và thúc đẩy quá trình đạt được mục tiêu.


1.2.3.2. Nhân tố bên ngoài

- Mức độ phát triển và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng

Mức độ mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội và thách thức giúp các NHTM tồn tại và phát triển, nhờ đó các hoạt động của ngân hàng buộc phải thay đổi để nâng cao tính cạnh tranh, đảm bảo tính bền vững, hiệu quả. Lĩnh vực kiểm toán nội bộ cũng nằm trong xu thế đó.

- Chính sách, cơ chế quản lý và giám sát của Nhà nước

Nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới định hướng, quan điểm phát triển của ngành ngân hàng trong từng thời kỳ. Sự thay đổi của chính sách hay cơ chế quản lý và giám sát của Nhà nước sẽ tác động tới hoạt động chung của toàn hệ thống ngân hàng, trong đó có công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ.

1.2.4. Tổ chức quá trình kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại

Theo Đại từ điển Tiếng Việt (2013), cụm từ "tổ chức" được hiểu như sau:

(1) nếu là động từ, tổ chức được hiểu là sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc một chức năng chung hoặc tiến hành công việc theo cách thức, trật tự nhằm đạt hiệu quả tốt nhất; (2) nếu là danh từ, tổ chức là tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì lợi ích chung. Cụm từ "quá trình" được định nghĩa là trình tự, các bước diễn biến và phát triển hoặc công việc đã trải qua một cách tuần tự. Vậy tổ chức quá trình kiểm toán nội bộ có thể hiểu là cách tiến hành công việc kiểm toán nội bộ theo những trình tự nhất định (phù hợp với các bước diễn biến của công việc) nhằm đạt nhiệm vụ/ chức năng/ hoặc mục tiêu chung của hoạt động kiểm toán nội bộ. Như vậy cách tiến hành công việc kiểm toán nội bộ là rất đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong tổ chức như việc lựa chọn nội dung, phương pháp, quy trình kiểm toán hay cách thức giám sát chất lượng kiểm toán; không những thế việc tổ chức quá trình còn nhấn mạnh vào con người chịu trách nhiệm trong từng khâu của tổ chức công việc kiểm toán nội bộ. Do đó trong cách tiếp cận về nội hàm của tổ chức quá trình kiểm toán nội bộ NHTM, NCS sẽ đề cập tới


tổ chức xác định nội dung kiểm toán nội bộ, tổ chức xác định phương pháp kiểm toán nội bộ và tổ chức xây dựng và thực hiện quy trình kiểm toán nội bộ trong các NHTM.

1.2.4.1. Tổ chức nội dung kiểm toán nội bộ

Tổ chức nội dung kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại có thể tập trung vào cả ba lĩnh vực: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính. Tuỳ theo yêu cầu của nhà quản lý đối với các đối tượng kiểm toán mà bộ phận kiểm toán nội bộ có thể xác định và thực hiện cả ba nội dung kiểm toán hoặc một trong ba công việc hoạt động kiểm toán.

Một là, kiểm toán hoạt động: Nội dung cuộc kiểm toán hoạt động do kiểm toán nội bộ thực hiện rất đa dạng, liên quan tới tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực của các hoạt động nghiệp vụ cụ thể và các hoạt động quản lý, điều hành, những chương trình, dự án… của NHTM. Trong đó:

Tính kinh tế (tiết kiệm) là giảm thiểu chi phí sử dụng nguồn lực sử dụng cho hoạt động mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Trong kiểm toán tính kinh tế, các yếu tố đầu vào thường là quan trọng, mà ở đó kiểm toán viên phải đánh giá xem ngân hàng có khả năng chi tiền thấp hơn quy định nhưng vẫn đạt được lợi ích như ban đầu hay không.

Tính hiệu quả là khả năng giảm nguồn lực trên một đơn vị sản phẩm, được hoạt động thấp hơn quy định trong kế hoạch hoặc ngược lại (nghĩa là tăng sản phẩm hoặc là tăng lợi ích đối với cùng một đơn vị vốn dùng vào hoạt động). Hay nói cách khác, tính hiệu quả giữa đầu ra với nguồn lực đã sử dụng để tạo ra chúng. Tính hiệu quả và tính kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tính kinh tế được coi là một phần của tính hiệu quả vì tính kinh tế chỉ nhằm nhấn mạnh khả năng giảm nguồn lực dùng vào hoạt động để đạt sản phẩm theo mục đích hoặc mục tiêu đề ra. Tính hiệu quả sẽ liên quan đến quan hệ giữa nguồn lực và sản phẩm đã bị biến đổi.


Tính hiệu lực là khả năng hoạt động đạt mục tiêu, mục đích đề ra. Hay nói một cách khác, tính hiệu lực dùng để đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu đã định trong một hoạt động cụ thể.

Một số nội dung chủ yếu mà kiểm toán nội bộ ngân hàng có thể thực hiện bao gồm:

Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện mục tiêu hoạt động của Ngân hàng thương mại: Mỗi tổ chức ngân hàng đều được hình thành trên cơ sở mục đích hoạt động nhất định, do vậy đánh giá tính phù hợp về mục đích hoạt động của ngân hàng, xem xét kết quả hoạt động có bám sát các mục đích đã được các cấp quản lý phê duyệt ban đầu hay không chính là nội dung quan trọng giúp kiểm toán nội bộ đánh giá sơ bộ về toàn bộ hoạt động của ngân hàng đó.

Kiểm tra, đánh giá việc huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực của Ngân hàng thương mại có đảm bảo tính kinh tế, và tính hiệu quả. Đây là nội dung cơ bản của kiểm toán hoạt động mà kiểm toán nội bộ cần phải thực hiện.

Kiểm tra, đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả của các hoạt động mang tính chất nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại như: hoạt động tín dụng, hoạt động kinh doanh tiền tệ... Đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của các quy trình hoạt động, phương pháp đo lường và quản lý rủi ro của ngân hàng; Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.

Kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng thương mại: bao gồm đánh giá trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Ban điều hành trong việc: sử dụng các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đặt ra có phù hợp với chính sách, chế độ của Nhà nước và quy chế hoạt động của Ngân hàng thương mại; xây dựng và ban hành các quy chế quản lý nội bộ cũng như đề ra giải pháp cụ thể để kiểm tra, kiểm soát toàn hệ thống; đánh giá tính hiệu quả của bộ máy quản lý, bộ máy điều hành các hoạt động của ngân hàng; Đánh giá việc xây dựng cơ chế, quy định, quy trình quản trị, điều hành, tác nghiệp của Ngân hàng thương mại…


Hệ thống thông tin quản lý và hệ thống thông tin tài chính, bao gồm cả hệ thống thông tin điện tử và dịch vụ ngân hàng điện tử.

Trong số các lĩnh vực mà kiểm toán nội bộ có thể thực hiện thì kiểm toán hoạt động là nội dung đặc trưng của tổ chức kiểm toán này. KTNB thực hiện các hoạt động trợ giúp đối với nhà quản lý xuất phát từ chính nhu cầu kiểm tra, đánh giá độc lập về tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả của các hoạt động trong ngân hàng. KTNB hiện đại hướng sự quan tâm, đánh giá tới tính hiệu lực, và tính hiệu quả của các hoạt động và đề xuất các giải pháp, đây là xu hướng phát triển tất yếu trong nội dung của KTNB Ngân hàng thương mại.

Hai là, kiểm toán tuân thủ: Nội dung công việc của kiểm toán tuân thủ trong các Ngân hàng thương mại có thể bao gồm:

Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chế độ quản lý của Nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định, quy chế của HĐQT và Ban giám đốc;

Kiểm tra việc tuân thủ các chỉ tiêu an toàn hoạt động ngân hàng bao gồm việc đánh giá tính đủ vốn của ngân hàng (thông qua tỷ lệ an toàn vốn), đánh giá chất lượng tài sản của ngân hàng (thông qua chất lượng tài sản có sinh lời), đánh giá chất lượng và năng lực quản lý của hoạt động ngân hàng, đánh giá khả năng sinh lời, khả năng thanh toán;

Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc, của từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ;

Kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, đến lưu trữ tài liệu kế toán…;

Kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc, quy định về kiểm tra, giám sát Ngân hàng thương mại từ cơ quan thanh tra, kiểm tra; từ Ủy ban Basel…


Ba là, kiểm toán báo cáo tài chính: Nội dung kiểm toán báo cáo tài chính trong các Ngân hàng thương mại bao gồm kiểm tra và xác nhận tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình HĐQT, Ban giám đốc ký, phê duyệt. Kiểm toán viên nội bộ có thể chia báo cáo tài chính thành từng khoản mục, bộ phận hoặc thành các chu kỳ và thực hiện kiểm toán. Cụ thể:

Nếu phân chia báo cáo tài chính thành các chu kỳ (quy trình kinh doanh), thì nội dung kiểm toán bao gồm: Kiểm toán tiền tệ và ngoại hối (Các hoạt động chính trong quy trình này bao gồm hoạt động gửi và nhận tiền gửi; vay, cho vay các ngân hàng khác; mua bán ngoại tệ với các ngân hàng và khách hàng); Kiểm toán quy trình tín dụng; Kiểm toán chu kỳ đầu tư góp vốn; Kiểm toán chu kỳ tiền gửi và thanh toán; Kiểm toán chu kỳ tài trợ thương mại; Kiểm toán hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin.

Nếu phân chia báo cáo tài chính thành các khoản mục, bộ phận thì nội dung kiểm toán bao gồm: Kiểm toán tài sản và nguồn vốn của Ngân hàng thương mại; Kiểm toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh; Kiểm toán tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN nhằm xác định số thuế và các khoản phải thanh toán với NSNN của ngân hàng đã được trình bày trên báo cáo tài chính có đúng, đầy đủ và kịp thời không…

Kiểm toán viên nội bộ cần xác định rõ mục tiêu, đối tượng được kiểm toán, để xác định nội dung kiểm toán cụ thể.

1.2.4.2. Tổ chức phương pháp kiểm toán nội bộ

Tổ chức phương pháp kiểm toán bao gồm việc xác định và thực hiện toàn bộ các biện pháp, thủ tục kiểm toán nhằm đạt được mục tiêu của cuộc kiểm toán. Trong cuộc kiểm toán nội bộ ngân hàng, kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều biện pháp, thủ tục khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán.

(1) Phương pháp kiểm toán tuân thủ

Đây là phương pháp được tiến hành nhằm thu thập bằng chứng liên quan tới tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng.


Bằng chứng thu được từ phương pháp kiểm toán này sẽ giúp kiểm toán viên nội bộ đánh giá được sự tồn tại của các quy chế kiểm soát nội bộ (có đầy đủ, chặt chẽ và phù hợp không); cũng như sự hoạt động của các quy chế kiểm soát nội bộ trong thực tế (có thường xuyên, liên tục và đạt hiệu quả không).

Phương pháp kiểm toán này thường được áp dụng khi hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả trong việc ngăn chặn gian lận, sai sót; rủi ro kiểm soát được đánh giá là không cao. Các kiểm toán viên nội bộ thường kỳ vọng có thể áp dụng phương pháp này trong cuộc kiểm toán, qua đó có thể giảm khối lượng công việc kiểm tra chi tiết.

Nội dung của phương pháp kiểm toán tuân thủ bao gồm: kỹ thuật điều tra hệ thống và thử nghiệm chi tiết về kiểm soát. Nếu kỹ thuật điều tra hệ thống nhằm kiểm tra toàn bộ các bước công việc từ đầu tới cuối hệ thống để đánh giá về sự tồn tại của các quy chế kiểm soát nội bộ, thì thử nghiệm chi tiết về kiểm soát nhằm kiểm tra tính thích hợp và hiệu quả của các quy chế kiểm soát nội bộ. Kiểm toán nội bộ có thể sử dụng một số thủ tục kiểm soát cơ bản để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ như: nghiên cứu văn bản tài liệu; quan sát; phỏng vấn; hoặc kiểm tra lại các dấu vết kiểm soát. Bằng chứng thu thập được thường là các sơ đồ, lưu đồ, bảng hỏi, hoặc bảng tường thuật để mô tả lại hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng.

Để thực hiện phương pháp kiểm toán tuân thủ, đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải có cái nhìn toàn diện về hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng. Thực vậy, các hoạt động quản lý, điều hành và kinh doanh tiền tệ luôn vận động đa dạng và phức tạp; trong khi đó các quy chế kiểm soát nội bộ có thể chậm thay đổi để đáp ứng thực tế. Do vậy gian lận, sai sót trong hoạt động ngân hàng là không tránh khỏi. Kiểm toán nội bộ phải coi hệ thống kiểm soát nội bộ như một hệ thống động bên trong cơ chế kiểm tra, giám sát của ngân hàng để kiểm toán toàn diện các quá trình, hoạt động theo yêu cầu của nhà quản lý; đánh giá những


điểm mạnh, điểm yếu; những mặt hiệu quả và chưa hiệu quả trong quá trình hoạt động kinh doanh tiền tệ và đưa ý kiến tư vấn cho lãnh đạo ngân hàng.

(2) Phương pháp kiểm toán cơ bản

Nếu phương pháp kiểm toán tuân thủ nhằm thu thập bằng chứng đánh giá về tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng thì phương pháp kiểm toán cơ bản lại thu thập bằng chứng về số liệu do hệ thống kế toán xử lý và cung cấp. Mọi thử nghiệm, phân tích và đánh giá đều dựa vào số liệu, thông tin của hệ thống kế toán nên phương pháp này còn được gọi là các bước kiểm nghiệm dựa vào số liệu.

Đây là phương pháp được vận dụng trong mọi cuộc kiểm toán, nhưng phạm vi và mức độ vận dụng lại phụ thuộc vào tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng. Phương pháp kiểm toán này có hai nội dung là: Phân tích, đánh giá tổng quát; và thử nghiệm chi tiết về nghiệp vụ và số dư tài khoản.

a) Phân tích, đánh giá tổng quát

Là việc xem xét số liệu trên báo cáo tài chính thông qua mối quan hệ là những tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Có hai kỹ thuật phân tích chính là phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất. Ngoài ra kiểm toán viên còn có thể áp dụng các mô hình để phân tích, dự báo. Một số chỉ tiêu thường được sử dụng khi phân tích hoạt động kinh doanh và báo cáo tài chính của ngân hàng gồm:

- Các chỉ tiêu an toàn hoạt động ngân hàng

+ Tỷ lệ an toàn vốn

+ Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản ngân hàng thông qua chất lượng hoạt động tín dụng như: tỷ lệ giữa nợ quá hạn so với tổng dư nợ, tỷ lệ giữa tổn thất nợ ròng so với tổng số nợ tổn thất ròng và so với tổng dư nợ, tỷ lệ và tính chất nợ quá hạn, mức tổn thất trong cho vay cũng như mức trích lập dự phòng về tổn thất cho vay… Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản còn thể hiện ở các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản bằng ngoại


tệ, vàng bạc, đá quý. Những khoản mục này cũng cần phải đánh giá do có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh lời và tính thanh khoản của một ngân hàng.

+ Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời

Chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản bình quân

Chỉ tiêu Thu nhập lãi suất ròng/ Tài sản sinh lời bình quân Chỉ tiêu Chênh lệch đầu vào đầu ra

Chỉ tiêu Thu nhập lãi ròng/ Tổng thu nhập

Chỉ tiêu Lợi nhuận sau thuế/ Vốn chủ sở hữu - ROE Tổng tài sản sinh lời/ Tổng tài sản

Chi lương và hành chính/ Tổng thu nhập

+ Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh khoản

Chỉ tiêu “Tài sản có thanh khoản/ Tổng tiền gửi” Chỉ tiêu “Tổng dư nợ tín dụng/ Tổng tiền gửi” Chỉ tiêu “Tài sản có thanh khoản/ Tổng tài sản”

- Các chỉ tiêu tăng trưởng

+ Tăng trưởng tổng tài sản

+ Tăng trưởng tài sản có chịu rủi ro thông thường

+ Mức tăng trưởng lợi nhuận ròng

- Các chỉ tiêu quản trị rủi ro

+ Chỉ tiêu “Vốn chủ sở hữu/ Tài sản chịu rủi ro

+ Chỉ tiêu “Tổng vốn huy động/ Vốn chủ sở hữu

+ Chỉ tiêu “Dự phòng tổn thất tín dụng/ Dư nợ tín dụng trung bình”

+ Chỉ tiêu “Dự trữ tổn thất tín dụng/ Dư nợ tín dụng"

Phương pháp này được vận dụng trong cả ba giai đoạn của cuộc kiểm toán. Bằng chứng thu được từ phân tích, đánh giá tổng quát sẽ giúp kiểm toán viên xác định được những sai lệch về thông tin,những biến động bất thường để khanh


vùng trọng tâm kiểm toán. Xác định phạm vi cần kiểm tra, nội dung cần đi sâu kiểm toán, những vấn đề có khả năng sai sót trọng yếu để triển khai công việc mà kiểm toán viên cho là cần thiết.

b) Thử nghiệm chi tiết về nghiệp vụ và số dư tài khoản

Đây là phương pháp kiểm tra chi tiết quá trình ghi chép, hạch toán và chuyển sổ các nghiệp vụ kinh tế và số dư tài khoản từ chứng từ vào sổ kế toán có liên quan. Mục đích của phương pháp này nhằm thu thập bằng chứng trực tiếp chứng minh cho mức độ tin cậy của các số liệu trên các tài liệu kế toán. Nội dung kiểm tra bao gồm:

Kiểm tra chi tiết nghiệp vụ

+ Khảo sát các nghiệp vụ thực tế phát sinh như thế nào;

+Xem xét các nghiệp vụ được ghi nhận ra sao;

+ Việc ghi chép nghiệp vụ vào các sổ kế toán, việc chuyển sổ đối với từng nghiệp vụ có đầy đủ, đúng đắn, đúng kỳ không.

Việc khảo sát này nhằm tìm ra những gian lận, sai sót ngay từ khi ghi chép. Điều này là quan trọng vì có thể ảnh hưởng tới tính đúng đắn, trung thực của thông tin tài chính. Thông thường kiểm toán viên sẽ tiến hành chọn mẫu để kiểm toán sao cho kết quả thu được nhanh chóng, phù hợp và hiệu quả.

Kiểm tra chi tiết số dư tài khoản

Mục đích của kiểm tra chi tiết số dư tài khoản là tìm ra các cơ sở dẫn liệu của số dư tài khoản có thật không; được tính toán, đánh giá hợp lý; được phân loại, tổng hợp đầy đủ, đúng đắn; và số dư tài khoản được trình bày, khai báo trên báo cáo tài chính phù hợp với thông lệ và chuẩn mực kế toán.

Thử nghiệm chi tiết số dư tài khoản cũng được tiến hành dựa trên mức độ sai sót trọng yếu của các tài khoản được lựa chọn và mức độ rủi ro kiểm soát cao hay thấp ở những lĩnh vực và bộ phận thử nghiệm. Thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ và số dư đem lại bằng chứng có giá trị và sức thuyết phục cao nhất. Kiểm toán nội bộ thường sử dụng để thử nghiệm ở những lĩnh vực quan trọng và nhạy


cảm trong kinh doanh ngân hàng như tiền tệ, vàng bạc, kim loại quý, ngoại tệ, những giao dịch giá trị lớn và mang tính đơn nhất.

(3) Phương pháp kiểm toán nội bộ dựa vào rủi ro (RBIA) [32], [36]

Đây là phương pháp bao gồm các thủ tục, hoặc kỹ thuật được sử dụng nhằm xác định và đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua quá trình thu thập thông tin tìm hiểu về đơn vị được kiểm toán. Từ đó kiểm toán viên sẽ thiết kế các biện pháp kiểm toán phù hợp nhằm đạt mục tiêu kiểm toán. Theo cách tiếp cận này kiểm toán viên cần tập trung vào những vùng được xác định là có rủi ro đáng kể và được phép không tập trung vào những vùng tồn tại rủi ro không đáng kể. RBIA được mô tả khái quát qua sơ đồ 1.1 sau:

Sơ đồ 1.1: Định nghĩa kiểm toán nội bộ dựa vào rủi ro


Sơ đồ trên chỉ rõ mối quan hệ giữa rủi ro mong muốn của nhà quản lý hay 1

Sơ đồ trên chỉ rõ mối quan hệ giữa rủi ro mong muốn của nhà quản lý hay còn gọi là khẩu vị rủi ro (risk appetite) (đường kẻ chéo đứt) với rủi ro trước khi được kiểm soát là rủi ro tiềm tàng (inherent risk) và rủi ro sau khi đã được kiểm soát là rủi ro còn lại (residual risk). Mức độ rủi ro mong muốn có thể được đánh giá kết hợp giữa xác suất và kết quả của quá trình đánh giá các loại rủi ro, phụ thuộc vào mức trọng yếu đã được thiết lập, tương ứng với tỷ số kết quả và sự mô tả về mặt định tính.


Lưu ý về sự khác biệt trong quan niệm về kiểm toán nội bộ cũ với cách tiếp cận RBIA, theo đó công việc kiểm toán nội bộ truyền thống thường xác nhận về tính hiệu quả của hoạt động kiểm soát và đưa ra ý kiến tư vấn nếu có sự yếu kém trong hoạt động kiểm soát. Các ý kiến của kiểm toán nội bộ có thể được nhà quản lý cân nhắc với giả định bộ phận kiểm toán nội bộ dường như phải chịu trách nhiệm với hoạt động kiểm soát và thực hiện rủi ro quản lý.

Trong cách tiếp cận theo RBIA, kiểm toán nội bộ chỉ có thể cung cấp sự đảm bảo cho nhà quản lý về tính hiệu quả của rủi ro quản lý thông qua chức năng tư vấn (trong khi nhà quản lý chịu trách nhiệm phát hiện, đánh giá rủi ro; quyết định các biện pháp thực hiện nếu các rủi ro không được kiểm soát phù hợp).

Đối với cuộc kiểm toán hoạt động, kiểm toán nội bộ sử dụng một số phương pháp phổ biến như:

Kiểm tra: được sử dụng phổ biến trong kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính đầy đủ, hợp lý, hợp lệ của các tài liệu và thông tin về hoạt động được kiểm toán.

Phỏng vấn: được sử dụng chủ yếu để thu thập bằng chứng bổ sung. Các kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết nhất định về lĩnh vực và hoạt động kiểm toán đồng thời phải chủ động đưa ra những câu hỏi khá sâu về chuyên môn mới hy vọng thu được bằng chứng thích hợp.

Phân tích: được sử dụng để so sánh, đánh giá sự biến động về mặt số liệu của các hoạt động được kiểm toán.

Quan sát thực tế hay còn gọi là phương pháp thực nghiệm chỉ có giá trị cao khi nghiên cứu áp dụng cho đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và giả định rủi ro kiểm soát là thấp. Trong kiểm toán hoạt động, phương pháp này được áp dụng khá nhiều.

Phương pháp nghiên cứu, đánh giá các trường hợp điển hình: là việc lựa chọn cụ thể một chương trình, một dự án, một loại hình hoạt động nào đó của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022