Xây Dựng Quy Trình Kiểm Toán Nội Bộ Cụ Thể Trong Các Tập Đoàn Tương Ứng Với Từng Loại Khách Thể Kiểm Toán


phí định kỳ và đặc biệt, như báo cáo chênh lệch chi phí thực tế và dự toán, báo cáo kết quả kinh doanh theo bộ phận, các báo cáo đánh giá dự án. Vì vậy, khi tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính, KTNB thường xem việc kiểm toán các báo cáo kế toán quản trị (như báo cáo chi tiết nợ phải thu theo thời hạn thanh toán, báo cáo chi tiết tăng giảm vốn chủ sở hữu...) là một phần để thu thập bằng chứng kiểm toán cho các khoản mục và phần hành của kiểm toán báo cáo tài chính. Để thực hiện kiểm toán báo cáo kế toán quản trị, các bộ phận KTNB phải thiết lập được quy trình kiểm toán báo cáo kế toán quản trị. Hơn nữa, cần xác định báo cáo kế toán tài chính và báo cáo kế toán quản trị có yêu cầu về thông tin khác nhau. Với báo cáo kế toán tài chính, yêu cầu thông tin là trung thực, hợp pháp, hợp lý. Với báo cáo kế toán quản trị, yêu cầu thông tin là kịp thời, hữu dụng và đáng tin cậy. Do đó, mục tiêu tiến hành KTNB đối với hai loại báo cáo nói trên sẽ có nhiều điểm khác nhau dẫn đến quy trình, nội dung thực hiện kiểm toán khác nhau.

Về phương pháp kiểm toán, cần sử dụng kết hợp kiểm toán chứng từ với kiểm toán ngoài chứng từ: Hiện nay, KTNB sử dụng chủ yếu là các phương pháp tiến hành kiểm toán chứng từ mà chưa sử dụng nhiều các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ. Kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán mà KTVNB sử dụng chủ yếu là kiểm tra tài liệu, đối chiếu xác minh các chứng từ trong nội bộ. Viêc thực hiện theo các phương pháp này có ưu điểm là chi phí kiểm toán thấp, không mất thời gian kiểm toán nhưng nếu chỉ sử dụng phương pháp kiểm toán này thì độ tin cậy của thông tin không cao. Vì vậy, KTNB nên chú trọng thực hiện các phương pháp khác như quan sát, kiểm kê, xác nhận, dự báo… Cách tốt nhất là KTVNB sử dụng kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. Sự phối hợp thực hiện này phải được vận dụng ngay từ khâu đầu tiên của cuộc kiểm toán là chuẩn bị kế hoạch kiểm toán. Ở giai đoạn này, KTV cần áp dụng các phưong pháp phân tích, kiểm tra tài liệu kết hợp với quan sát, phỏng vấn để xác định trọng tâm kiểm toán. Trong thực hiện kiểm toán, KTNB kết hợp các kỹ thuật kiểm tra tài liệu với kiểm kê, xác nhận nhằm thu được các bằng chứng tin cậy một cách hiệu quả nhất. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, KTNB cần tổng hợp kết quả kiểm toán, phỏng vấn trao đổi với ban giám đốc của bộ phận được kiểm toán. Như vậy, KTNB cần thay đổi xu hướng vận dụng các kỹ thuật kiểm toán từ chủ yếu áp dụng kiểm toán chứng từ sang xu hướng sử dụng cả hai loại phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.


Với kỹ thuật chọn mẫu của KTNB: Khi tiến hành kiểm toán, cũng như các loại hình kiểm toán khác KTNB không thể tiến hành toàn bộ các phần từ tổng thể bao gồm toàn bộ các nghiệp vụ, các hoạt động. Tất yếu KTNB phải sử dụng chọn mẫu kiểm toán. Việc chỉ sử dụng chọn mẫu theo phán đoán chủ quan của KTV như hiện nay sẽ làm cho kết luận của kiểm toán dựa trên xét đoán chủ quan của KTV. Trong quá trình khảo sát, Tác giả nhận thấy các bộ phận KTNB trong các tập đoàn chủ yếu sử dụng chọn mẫu dựa trên sở lựa chọn những khoản mục nghiệp vụ có dấu hiệu sai phạm trong các niên độ trước hoặc chọn những khoản mục mà kiểm toán độc lập có ý kiến tư vấn. Cách chọn mẫu như vậy trong nhiều trường hợp đã bỏ qua sai phạm, đặc biệt là những sai phạm liên quan đến nhiều niên độ kế toán khác nhau. Vì vậy, KTNB nên áp dụng kết hợp các phương pháp chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất khi lựa chọn phần tử để tiến hành kiểm toán.

Với việc áp dụng kiểm toán theo chương trình máy tính (CAATs): Công việc KTNB không phải là công việc mang tính thời kỳ mà tiến hành thường xuyên. Việc thiết kế các chương trình kiểm toán hoặc thuê thiết kế các chương trình kiểm toán phục vụ cho công tác KTNB là một việc mà các bộ phận KTNB trong các tập đoàn nên thực hiện. Hơn nữa, việc này tạo khả năng áp dụng của các kiểm toán theo chương trình máy tính trên phạm vi rộng. Chương trình này có thể được áp dụng cho KTNB của không chỉ tại công ty mẹ mà còn tại các công ty thành viên. Hơn nữa, khi tạo một chương trình kiểm toán chung theo chương trình máy tính trên trên toàn tập đoàn có kết nối giữa công ty mẹ và các công ty thành viên, việc thực hiện tổng hợp kết quả kiểm toán và báo cáo kết quả kiểm toán sẽ được thực hiện nhanh chóng hơn.

Ngoài ra, sử dụng chương trình máy tính còn có thể trợ giúp cho ban kiểm soát hoặc bộ phận KTNB tập đoàn có thể thực hiện các chức năng quản lý kế hoạch kiểm toán và quản lý nhân sự kiểm toán.

Về phương pháp tiếp cận trong KTNB: KTNB nên thay đổi phương pháp tiếp cận đối tượng kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế về kiểm toán. Cách thức tiếp cận của KTNB đã thay đổi rất lớn trong những thập kỷ qua, từ kiểm toán tuân thủ (compliance audit approach) chuyển sang kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro (risk- based audit approach) nhằm tăng thêm giá trị và hiệu quả cho các doanh nghiệp thông qua các phương pháp chủ động, có tính xây dựng và tư vấn. Phương pháp kiểm toán tuân thủ là phương pháp tiếp cận dựa trên HTKSNB. Phương pháp kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro ưu tiên tập trung nguồn lực để kiểm toán các doanh nghiệp thành viên,


đơn vị, bộ phận, quy trình được đánh giá có mức độ rủi ro cao. KTNB của công ty mẹ và từng doanh nghiệp phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ sơ rủi ro cho từng hoạt động. Hồ sơ rủi ro bao gồm toàn bộ các rủi ro tiềm tàng, tác động có thể có của các rủi ro đó đối với hoạt động của doanh nghiệp và khả năng xảy ra những rủi ro đó. Dựa trên đánh giá về tác động, khả năng xảy ra của các rủi ro; từng rủi ro được phân loại thành rủi ro cao, trung bình hoặc thấp. Việc đánh giá, phân loại rủi ro phải được thực hiện ít nhất một năm một lần.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.

Kết quả đánh giá rủi ro sẽ là căn cứ để trưởng bộ phận KTNB làm việc với ban kiểm soát, tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong quá trình lập kế hoạch KTNB hàng năm. Các rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự từ cao đến thấp, trong đó những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên tập trung nhiều nguồn lực, thời gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước và được kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt động có rủi ro thấp hơn. Kế hoạch KTNB phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá rủi ro và phải được cập nhật, thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến, thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp thành viên và sự thay đổi của các rủi ro đi kèm theo. Thực ra, thực hiện thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro đã được áp dụng nhiều trong loại hình kiểm toán độc lập khi tiến hành kiểm toán bảng khai tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 cũng đưa ra nội dung và quy trình thực hiện thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro. Tuy nhiên, việc áp dụng thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro trong KTNB có một vài điểm khác biệt nhất định. Khái quát mô hình thực hiện tiếp cận dựa trên HTKSNB và dựa trên đánh giá rủi ro được thể hiện tại phụ lục 3.4. Có thể nhận thấy ưu việt của phương pháp tiếp cận KTNB dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro theo những nội dung sau:

Thứ nhất: KTVNB hoàn toàn chủ động trong nhận diện các loại ngay từ khi bắt đầu cuộc kiểm toán khi áp dụng KTNB theo phương pháp tiếp cận rủi ro. Với phương pháp tiếp cận truyền thống, KTVNB sẽ bị động trong quá trình đánh giá khi chỉ đi theo những thủ tục kiểm soát nội bộ mà nhà quản lý thiết kế nhằm đối mặt với các loại rủi ro mà nhà quản lý nhận diện. Trong hoạt động của các doanh nghiệp, môi trường kinh doanh luôn thay đổi, rủi ro ngày càng đa dạng và thể hiện trong nhiều hình thái khác nhau, các thủ tục kiểm soát thường có xu hướng bị lạc hậu theo thời gian.

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 22

Thứ hai: Phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro sẽ tạo định hướng tốt hơn cho KTNB tiến hành kiểm toán đối với những nội dung kiểm toán thuộc lĩnh vực phi tài chính, kiểm toán các vấn đề mang tính chiến lược của đơn vị.


Thứ ba: Phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro sẽ gắn trực tiếp với các nhóm tiêu chuẩn đánh giá liên quan đến hiệu quả sử dụng nguồn lực, các tiêu chuẩn liên quan đến từng nhóm rủi ro.


3.4.1.2. Xây dựng quy trình kiểm toán nội bộ cụ thể trong các tập đoàn tương ứng với từng loại khách thể kiểm toán

Theo khảo sát của Tác giả, cách thức xây dựng quy trình KTNB trong các tập đoàn hiện nay mới chỉ chủ yếu dựa trên loại hình kiểm toán báo cáo tài chính trong khi lĩnh vực kiểm toán chủ yếu của KTNB là kiểm toán hoạt động. Hơn nữa, như phân trên đã trình bày, xu hướng kết hợp các loại hình kiểm toán trong cùng một cuộc kiểm toán nhằm giảm chi phí kiểm toán và tăng cường hiệu quả của KTNB. Như vậy, cần phải thay đổi và điều chỉnh quy trình kiểm toán đang vận dụng trong KTNB các tập đoàn ở cả 4 giai đoạn: chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán và kiểm tra thực hiện kiến nghị. Vì vậy, các giải pháp mà Tác giả đưa ra liên quan đến cả bốn giai đoạn theo những nội dung chủ yếu sau:

Giai đoạn I: Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán. Trong giai đoạn này cần tập trung vào các mặt chủ yếu sau:

Thứ nhất, Công tác thu thập thông tin về đơn vị thành viên được kiểm toán: Đặc điểm tổ chức kinh doanh của các tập đoàn kinh tế hiện nay là nhiều đơn vị thành viên với ngành nghề kinh doanh đa dạng, phương thức quản lý vừa tập trung vừa phân tán… Vì vậy các thông tin về doanh nghiệp thành viên được kiểm toán luôn thay đổi. Với cách thu thập thông tin như hiện nay của các bộ phận KTNB, thông tin thu được thường không đầy đủ, đặc biệt là các thông tin về sự thay đổi của đơn vị được kiểm toán. Do đó, KTNB trong các tập đoàn cần thu thập các thông tin toàn diện hơn, sử dụng nhiều nguồn thông tin hơn.

Nội dung thu thập thông tin bổ sung cần thu thập là thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị thành viên trong tập đoàn. Ngoài ra, cần thu thập các thông tin về quản lý nội bộ đơn vị như thông tin về thay đổi nhân sự, thông tin về tổ chức quản lý và tổ chức kinh doanh. Đặc biệt, KTNB trong các tập đoàn khi thu thập thông tin còn chưa đánh giá quan điểm điều hành của ban giám đốc.

Nguồn thông tin có thể thu thập từ bộ phận KTNB (thông qua hồ sơ kiểm toán dài hạn) hoặc thông qua chính những báo cáo hoạt động, báo cáo quản trị của đơn vị


thành viên trình tập đoàn. Ngoài ra, KTVNB cần thu thập thêm những thông tin liên quan về môi trường kinh doanh về chính sách kinh tế xã hội.

Các thông tin thu thập cần được ghi chép và lưu trữ trong hồ sơ KTNB. Các KTVNB cần đánh giá ảnh hưởng của những thông tin bổ sung đến các thông tin cần được kiểm toán.

Kết thúc bước này, KTNB phải dự đoán và đánh giá sơ bộ về các rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Những dự đoán này có thể là cơ sở để KTV có thể xác định những vấn đề quan trọng của đơn vị và phân tích sơ bộ. Các phân tích sơ bộ mà KTVNB có thể vận dụng không chỉ bao gồm các phân tích truyền thống như phân tích ngang, phân tích dọc, phân tích chéo. Các phân tích trên mới chỉ tập trung vào các chỉ tiêu tài chính. KTNB có định hướng kiểm toán chú trọng đến kiểm toán hoạt động nên cần theo dõi và phân tích đến các nhân tố phi tái chính. Các phân tích hiện đại hướng đến các nhân tố phi tài chính có thể là phân tích SWOT (S- điểm mạnh, W- điểm yếu, O- Cơ hội, T- Thách thức), hoặc phân tích chú trọng vào các yếu tố bên ngoài mang tính vĩ mô như phân tích PEST (P- các yếu tố chính trị luật pháp ảnh hưởng tới ngành kinh doanh ví dụ như thay đổi và điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, E- các yếu tố kinh tế như tăng trưởng GDP, thay đổi giá dầu, S- các yếu tố xã hội về niềm tin hoặc thái độ đối với tiếp nhận xu hướng quốc tế, T- Các yếu tố về kỹ thuật như phát triển khoa học công nghệ liên quan đến ngành kinh doanh). Hơn nữa, nếu cuộc kiểm toán hướng đến đánh giá chiến lược hoạt động của một đơn vị thành viên hoặc của toàn tập đoàn, các mô hình phân tích có thể được mở rộng hơn như sử dụng mô hình phân tích cho ngành hoạt động của doanh nghiệp 5-FORCES. Trong phân tích này, người ta xem xét đến năm yếu tố sau: Một là, Khả năng xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh mới và rào cản của của ngành; Hai là, Sức mạnh của nhà cung cấp; Ba là, nguy cơ thay thế, Bốn là, sức mạnh của khách hàng thể hiện ở số lượng người mua, Năm là, Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành nghề.

Thứ hai, Đối với nội dung lập kế hoạch kiểm toán năm: Khi lập kế hoạch kiểm toán năm, KTNB thường lập kế hoạch theo cách thức định kỳ, ưu tiên kiểm toán những đơn vị chưa kiểm toán lần nào hoặc kiểm toán theo thứ tự khoảng cách thời gian giữa các lần kiểm toán. Sẽ có xu hướng doanh nghiệp thành viên chưa được kiểm toán năm trước biết trước khả năng trở thành khách thể kiểm toán của KTNB từ tập đoàn. Điều đó sẽ làm giảm giá trị của KTNB. Như phần trên đã trình bày KTNB nên thay đổi phương pháp tiếp cận kiểm toán theo phương pháp kiểm toán dựa trên


rủi ro, do đó trong kế hoạch kiểm toán năm nên lựa chọn những doanh nghiệp thành viên có rủi ro kiểm toán cao. Điều đó có nghĩa là có nhiều doanh nghiệp sẽ được kiểm toán nhiều năm liên tiếp. Ngoài ra, trong kế hoạch kiểm toán năm của các tập đoàn mà Tác giả khảo sát quy trình kiểm toán như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, kế hoạch kiểm toán năm đều chỉ chú trọng đến việc liệt kê danh sách các đơn vị được kiểm toán chứ chưa chú trọng đến mục tiêu và phạm vi kiểm toán cho từng khách thể kiểm toán. Vì vậy, với cách tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro, KTNB sẽ chú trọng vào những lĩnh vực rủi ro cao của doanh nghiệp, xác định rõ được phạm vi kiểm toán và mục tiêu kiểm toán.

Thứ ba, Đối với kế hoạch kiểm toán chi tiết cho từng doanh nghiệp thành viên: Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết của KTNB trong các tập đoàn kinh tế chủ yếu vẫn dựa theo nội dung lập kế hoạch KTNB của các tổng công ty trước đây do đó chưa thể hiện được những điểm thay đổi ảnh hưởng đến xác định nội dung cụ thể của kiểm toán. Theo Tác giả, trong kế hoạch kiểm toán chi tiết cần xác định dựa trên các nhân tố cơ bản sau:

Trước hết, cần thay đổi cách thức thu thập và nội dung thông tin khái quát về hoạt động của doanh nghiệp thành viên được kiểm toán dựa trên các kết quả phân tích ở các bước trên. Có thể xem xét đến một số nội dung sau:

+ Những nhân tố bên trong ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị như bản chất liên kết giữa doanh nghiệp thành viên được kiểm toán với công ty mẹ, giữa doanh nghiệp đó với các công ty trực thuộc, cơ cấu tổ chức và quy chế tài chính của doanh nghiệp.

+ Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: Theo phương pháp kiểm toán dựa trên rủi ro, KTNB cần đánh giá ảnh hưởng của những nhân tố bên ngoài như đối thủ cạnh tranh, thay đổi công nghệ, thay đổi môi trường kinh doanh. Trong phần đánh giá này KTNB có thể sử dụng phân tích điểm mạnh - điểm yếu - cơ hội - thách thức để xác định rủi ro cho các hoạt động của doanh nghiệp thành viên

Tiếp đó, KTVNB cần xem xét thông tin liên quan đến hệ thống kế toán và HTKSNB của doanh nghiệp. Quá trình thu thập thông tin này được KTNB các tập đoàn thực hiện tương đối đầy đủ. Tuy nhiên việc xác định trọng yếu và rủi ro kiểm toán chưa được KTNB xây dựng thành một quy trình hoàn chỉnh. Hiện tại, trong quá


trình thực hiện, các KTVNB trong tập đoàn đang thực hiện đánh giá trọng yếu và rủi ro dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp và xét đoán cá nhân. Vì vậy, việc xây dựng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro cần được ưu tiên thực hiện đối với các bộ phận KTNB trong tập đoàn.

Sau đó trong cuộc họp bắt đầu kiểm toán, nhóm trưởng (trưởng đoàn) kiểm toán nên thảo luận một cách độc lập và khách quan quá trình lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc kiểm toán với giám đốc đơn vị kinh doanh để lấy ý kiến phản hồi của họ về kế hoạch này. Đây sẽ là cơ sở để điều chỉnh kế hoạch kiểm toán trước khi thực hiện kiểm toán. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả bộ phận KTNB và đơn vị thành viên được kiểm toán tiến hành công việc một cách có hiệu quả nhất.

Thứ tư, KTNB trong các tập đoàn xây dựng các chương trình kiểm toán mẫu: Thiết kế một chương trình kiểm toán mẫu là cách thức mà KTNB nhiều tập đoàn trên thế giới hiện nay đang sử dụng. KTNB trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam hiện nay đã xây dựng chương trình kiểm toán mẫu nhưng chưa đưa ra hướng dẫn điều chỉnh chương trình kiểm toán cho từng loại hình doanh nghiệp thành viên. Điều này cần được KTNB thực hiện nhằm rút ngắn thời gian chuẩn bị kiểm toán. Trong phần trên, tác giả đã trình bày đến sự thay đổi phương pháp tiếp cận của KTNB. Theo sự thay đổi này, KTNB nên xây dựng các chương trình kiểm toán cụ thể theo phương pháp kiểm toán dựa trên rủi ro và phù hợp với từng đơn vị kinh doanh hay lĩnh vực được kiểm toán cụ thể.

Giai đoạn II : Thực hiện KTNB

Với xu hướng tiếp cận đối tượng kiểm toán dựa trên rủi ro, quá trình thực hiện KTNB cần hoàn thiện những nội dung sau nhằm phù hợp với phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro trên những nội dung sau:

Thứ nhất, Các vấn đề ghi nhận trong quá trình kiểm toán cần được ghi lại ngay lập tức và cần được thảo luận với các bên liên quan ngay trong quá trình kiểm toán thực địa tại doanh nghiệp thành viên. Nếu đến khi kết thúc kiểm toán mới trao đổi các vấn đề đó thì nội dung và bản chất của vấn đề có thể bị ảnh hưởng bởi thời gian và các yếu tố khách quan khác. Khi trao đổi với các bên liên quan, KTVNB cần ghi lại nội dung trao đổi và kết quả thống nhất giữa KTVNB và ban giám đốc doanh nghiệp thành viên trong giấy tờ làm việc. Với những vấn đề chưa thống nhất, KTNB cần đánh giá và thu thập thêm bằng chứng nhằm đưa ra kết luận kiểm toán.


Thứ hai, Hoàn thiện hệ thống hồ sơ kiểm toán: Để hoàn thiện hệ thống hồ sơ kiểm toán trước hết phải có quy định cụ thể hơn nữa về cách thức trình bày giấy tờ làm việc của KTV và thống nhất cách đánh số và các ký hiệu tham chiếu của hồ sơ kiểm toán. Ngoài ra, cần hoàn thiện công tác lưu trữ hồ sơ kiểm toán và nên tách biệt giữa hồ sơ kiểm toán chung và hồ sơ kiểm toán năm cho từng doanh nghiệp thành viên. Làm như vậy sẽ thuận lợi cho KTNB thực hiện lập kế hoạch và theo dõi quá trình thực hiện kiểm toán và giám sát thực hiện kiến nghị kiểm toán.

Thứ ba, Thiết kế hệ thống biểu mẫu kiểm toán và áp dụng thống nhất trong bộ phận KTNB của toàn tập đoàn. Hệ thống biểu mẫu in sẵn sẽ giúp cho người quản lý đoàn (tổ) kiểm toán tổng hợp, kiểm tra, đối chiếu phát hiện kịp thời những sai lệch của thông tin thông qua mối quan hệ logic giữa các số liệu, tài liệu và đánh giá năng lực chuyên môn cuả từng KTV. Hơn nữa, hệ thống biểu mẫu thống nhất sẽ giúp cho KTVNB tại các đơn vị thành viên có thể phối hợp tốt hơn với KTVNB tại công ty mẹ.

Thứ tư, Như phần trên đã đề cập, chương trình kiểm toán cụ thể của KTNB trong các tập đoàn xây dựng trên cơ sở phương pháp kiểm toán tuân thủ mà chưa nhằm kiểm tra hiệu năng quản lý và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các KTVNB yêu cầu lãnh đạo và các cán bộ của đơn vị thành viên được kiểm toán giải trình các công việc mà họ đã làm và cung cấp các tài liệu để chứng tỏ họ đã tuân thủ theo đúng các quy trình hoạt động chuẩn của tập đoàn hay chưa (phương pháp kiểm toán tuân thủ). Trong trường hợp này, việc xem xét rủi ro chỉ giới hạn ở những rủi ro không tuân thủ với thủ tục hoạt động chuẩn của tập đoàn và những quy định của pháp đối với các doanh nghiệp trong tập đoàn kinh tế nhà nước. Do đó, các vấn đề ghi nhận trong quá trình kiểm toán còn hạn chế trong việc đem lại các giá trị thực sự cho hoạt động kinh doanh. KTNB nên chuyển từ phương pháp kiểm toán tuân thủ sang phương pháp kiểm toán dựa trên cơ sở rủi ro. Vì vậy, hướng kết hợp các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán sẽ theo cách thức tiếp cận mới này.

Đối với đánh giá hiệu quả, hiệu năng trong kiểm toán hoạt động, KTV có thể thực hiện theo các trình tự công việc như sau:

Thứ nhất, Xem xét khái quát và lựa chọn các tiêu chuẩn để đánh giá: Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán KTVNB đã xem xét khái quát về môi trường kinh doanh, về những lợi thế so sánh về các yếu phi tài chính ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Trên cơ sở đó, KTVNB sẽ tìm hiểu các tiêu chuẩn đánh giá. Các tiêu chuẩn đánh giá có thể sử dụng bao gồm: so sánh với số liệu lịch sử của bản thân khách

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 10/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí