1.1.2. Mối quan hệ giữa quản lý, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ [6]
Quản lý trong một tổ chức là quá trình sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu đã xây dựng. Quá trình quản lý bao gồm những nội dung cơ bản như: lập kế hoạch, tổ chức, cung cấp nguồn lực, điều hành và kiểm soát. Kiểm soát nội bộ là một nội dung của quá trình quản lý và có tác động trở lại với các yếu tố của quá trình quản lý. Chỉ có hoạt động kiểm soát mới giúp con người lập được kế hoạch phù hợp, xác định mục tiêu một cách tốt nhất; thông qua tổ chức để sắp xếp bố trí công việc theo kế hoạch và kiểm soát được thực hiện theo đúng trình tự mà tổ chức đã tạo ra; việc cung cấp nguồn lực trong tổ chức phải có sự kiểm soát, đặc biệt là kiểm soát nguồn nhân lực; kiểm soát phải đi liền với việc điều hành hệ thống, trong đó có hệ thống kiểm soát nội bộ. Như vậy kiểm soát nội bộ cũng là một quá trình diễn ra liên tục cùng với hoạt động quản lý và là một chức năng quan trọng của quản lý, giúp nhà quản trị của đơn vị đạt được mục tiêu trong quản lý và điều hành (bao gồm mục tiêu bảo vệ tài sản; mục tiêu tuân thủ pháp luật; mục tiêu hoạt động và mục tiêu thông tin).
Để đạt được những mục tiêu kiểm soát nội bộ nêu trên, (nhà) quản lý phải sử dụng rất nhiều các công cụ hỗ trợ trong đó có kiểm toán nội bộ. Trước đây kiểm toán nội bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm soát để phục vụ và bảo vệ cho nhà quản lý. Ngày nay đứng trước xu hướng mở rộng không ngừng về nhu cầu bảo vệ và việc sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ mở rộng ra việc giám sát nhà quản lý và qua đó để phục vụ cho người sử dụng thông tin. Do vậy nhiệm vụ kiểm soát của kiểm toán nội bộ hiện đại như là phục vụ cho tổ chức. Kiểm toán nội bộ cần phải hiểu được nhu cầu của nhà quản lý, học cách suy nghĩ như nhà quản lý và giúp nhà quản lý đạt được các mục tiêu kiểm soát nội bộ. Mặt khác bản thân kiểm toán viên nội bộ cũng là người phụ trách và giám sát - hay là nhà quản lý trong nghề kiểm toán. Do vậy ngay trong hoạt động kiểm toán nội bộ cũng phải vận dụng kỹ năng quản lý và kiểm soát như là một khoa học đồng thời lại là một nghệ thuật.
1.1.3. Mục tiêu hoạt động của kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về kiểm toán nội bộ có thể thấy mục tiêu kiểm toán nội bộ nói chung là tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả hoạt động của một tổ chức. Trong đó giá trị gia tăng được hiểu là giá trị được tạo ra thông qua việc cải thiện các cơ hội để đạt được mục tiêu của tổ chức, giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn thông qua việc kiểm tra, đánh giá và tư vấn. Trong lĩnh vực Ngân hàng thương mại, các mục tiêu của kiểm toán nội bộ bao gồm:
Giúp Hội đồng quản trị (HĐQT), ban điều hành (BĐH) ngân hàng thực hiện chức năng giám sát đối với quy trình báo cáo thông tin nhằm đảm bảo rằng thông tin được công bố là trung thực, hợp lý và hợp pháp;
Đánh giá tính hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống kiểm soát nội bộ. Phát hiện kịp thời và chỉ ra nguyên nhân những yếu kém trong hoạt động từ đó đề xuất ý kiến tư vấn với HĐQT, BĐH cải thiện hoạt động ngân hàng;
Đánh giá việc tuân thủ các điều luật và các quy định liên quan. Cụ thể, kiểm toán nội bộ cần đảm bảo toàn bộ hoạt động của ngân hàng phải phù hợp với điều luật và các quy định liên quan, phù hợp với các yêu cầu của việc giám sát cũng như phù hợp với các nguyên tắc và quy trình của ngân hàng. Đánh giá mục tiêu tuân thủ cũng góp phần bảo vệ sự tồn tại và danh tiếng của ngân hàng;
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam - 1
- Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam - 2
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Và Tổ Chức Bộ Máy Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại
- Tổ Chức Quy Trình Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại
- Tổ Chức Bộ Máy Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Giúp nâng cao vị thế của ngân hàng thông qua việc hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro và hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
1.1.4. Chức năng kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
Chức năng kiểm toán nội bộ là một phần của quy trình giám sát thường xuyên hệ thống kiểm soát nội bộ và quy chế đánh giá vốn nội bộ của ngân hàng. Sự hình thành các chức năng kiểm toán nội bộ ngân hàng gắn chặt với đặc điểm của Ngân hàng thương mại. Để đưa ra ý kiến về thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại, kiểm toán nội bộ có thể sử dụng đồng thời các chức năng sau:
- Chức năng kiểm tra: Là việc sử dụng các kỹ thuật thông thường như rà soát lại, nghiên cứu kỹ, đọc, duyệt, xem xét, so sánh, đối chiếu, xác minh… để
thu thập bằng chứng kiểm toán liên quan tới mức độ tin cậy của thông tin. Ngoài kiểm tra mức độ tin cậy của thông tin, kiểm toán nội bộ còn tập trung kiểm tra tính tuân thủ các quy định pháp lý liên quan tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt khi các ngân hàng phải thường xuyên giám sát một lượng tiền và giấy tờ có giá trị lớn.
- Chức năng xác nhận: Thông qua quá trình kiểm tra,chức năng xác nhận cần tập trung làm rõ các thông tin do bộ phận kế toán ngân hàng cung cấp có đảm bảo tuân thủ những chuẩn mực, thông lệ kế toán ngân hàng đề ra không. Trong đó lưu ý sự khác biệt giữa hệ thống kế toán quốc gia này với quốc gia khác khi các ngân hàng có các chi nhánh hoạt động phân tán và phân quyền lớn.
- Chức năng đánh giá: Kiểm tra, xác nhận đã tạo tiền đề cho chức năng đánh giá. Kiểm toán nội bộ cần rút ra kết luận làm cơ sở cho việc phục vụ công tác quản lý. Do vậy chức năng đánh giá được thể hiện rõ ở ba cấp độ: Kết quả đang đạt được tốt đến đâu? Tại sao lại có kết quả đó? Liệu có thể làm được gì tốt hơn? Chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ 2010.A2 mới yêu cầu, khi đánh giá, kiểm toán nội bộ phải xác định và xem xét những kỳ vọng của lãnh đạo cấp cao, hội đồng quản trị và các bên liên quan về quan điểm kiểm toán nội bộ và các kết luận khác.
- Chức năng báo cáo (tư vấn): Dựa vào những phát hiện trong quá trình kiểm tra, đánh giá kiểm toán nội bộ đề xuất và tư vấn giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng; giúp ngân hàng đạt được mục tiêu quản lý và điều hành. Chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ 2410.A1 mới nêu rõ, các báo cáo phải bao gồm quan điểm và / hoặc các kết luận tổng thể của kiểm toán viên nội bộ. Khi ban hành, quan điểm hay kết luận đó phải tính đến những kỳ vọng của lãnh đạo cấp cao, hội đồng quản trị và các bên liên quan khác và phải được hỗ trợ bởi hệ thống thông tin đầy đủ, đáng tin cậy, có liên quan và hữu ích. Quan điểm có thể là những xếp hạng, kết luận, hay bản mô tả khác của các kết quả. Sự tham gia như thế có thể liên
quan đến kiểm soát quanh một quy trình cụ thể, rủi ro, hoặc đơn vị kinh doanh. Việc xây dựng những quan điểm như thế yêu cầu sự xem xét về các kết quả tham gia và ý nghĩa của chúng.
1.1.5. Nhiệm vụ kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
Kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm toán đối với tất cả các hoạt động của NHTM tùy theo quy mô và mức độ rủi ro. Theo Ủy ban giám sát an toàn hoạt động ngân hàng Basel, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ bao gồm:
+ Kiểm tra, đánh giá sự phù hợp và hiệu quả của hệ thống KSNB;
+ Đánh giá việc áp dụng hiệu quả các quy trình quản lý rủi ro, phương pháp đánh giá rủi ro;
+ Đánh giá hệ thống thông tin quản lý và thông tin tài chính, bao gồm cả thông tin điện tử và dịch vụ điện tử;
+ Đánh giá tính chính xác và độ tin cậy của các sổ sách kế toán và các báo cáo quản trị;
+ Đánh giá các biện pháp bảo đảm an toàn tài sản;
+ Đánh giá hệ thống đánh giá vốn của ngân hàng trong mối tương quan với các rủi ro ước lượng của nó;
+ Đánh giá hiệu quả và mức độ tiết kiệm của nghiệp vụ ngân hàng;
+ Thử nghiệm các giao dịch và sự vận hành của các quy trình kiểm soát;
+ Xem xét các hệ thống đã được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của pháp luật, quy định về hành vi và sự áp dụng các chính sách và quy trình;
+ Kiểm nghiệm độ tin cậy và tính kịp thời của các báo cáo theo luật định;
+ Tiến hành các hoạt động điều tra đặc biệt.
Từ khái niệm, mục tiêu, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại cho thấy tầm quan trọng của bộ phận này đối với sự an toàn và khả năng phát triển trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Việc xây dựng và thực hiện tổ chức kiểm toán nội bộ phù hợp, hiệu quả sẽ cho phép các Ngân hàng thương mại chống đỡ tốt nhất với rủi ro.
1.2. TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH VÀ BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Đặc điểm hoạt động của Ngân hàng thương mại tác động tới quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Hoạt động của Ngân hàng thương mại khác nhiều so với các ngành khác trong nền kinh tế vì đây là lĩnh vực rất nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro. Điều này đòi hỏi hoạt động ngân hàng phải thường xuyên được giám sát độc lập bởi tổ chức kiểm toán. Dưới đây là khái quát những ảnh hưởng về đặc điểm hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại (bao gồm cả các Ngân hàng thương mại nhà nước - NHTMNN) và đặc điểm hoạt động quản lý của NHTMNN nói riêng tác động tới quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
1.2.1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại tác động tới quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Thứ nhất: Là ngân hàng kinh doanh tiền gửi nên các Ngân hàng thương mại quản lý, giám sát một lượng tiền và các giấy tờ có giá trị lớn. Các loại tài sản này thường đòi hỏi phải có những biện pháp bảo vệ an ninh chặt chẽ cả khi bảo quản cất giữ, vận chuyển cũng như chuyển giao, đồng thời nó cũng biến ngân hàng thành nơi rất nhạy cảm với các vấn đề về biển thủ, tham ô, gian lận và vượt thẩm quyền. Các mục tiêu về tính tuân thủ quy định pháp luật, bảo vệ tài sản và cung cấp thông tin đáng tin cậy có thể dễ dàng bị vi phạm. Vì vậy các ngân hàng thường phải thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ nghiêm khắc, chặt chẽ với việc xây dựng và triển khai các loại kiểm soát và nguyên tắc kiểm soát phù hợp. Kiểm toán nội bộ được sử dụng như một công cụ giúp nhà quản lý ngân hàng thực hiện các mục tiêu kiểm soát nội bộ trên.
Thứ hai: Giá trị và khối lượng giao dịch rất lớn và đa dạng, các giao dịch này ảnh hưởng trực tiếp đến bảng cân đối tài sản, rủi ro, thu nhập và chi phí của ngân hàng kéo theo nguy cơ về rủi ro tiềm tàng tăng cao, nên đòi hỏi phải được xử lý nhanh chóng, chuẩn xác. Mặt khác, việc hướng tới khách hàng là chiến
lược kinh doanh của bất kỳ ngân hàng nào, vì thế các ngân hàng đều phải ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động. Bên cạnh ưu điểm nhanh chóng, độ chuẩn xác cao, hạn chế lợi dụng tham nhũng… thì sử dụng công nghệ thông tin còn có những điểm cần lưu ý: lỗi máy tính, sự cố vi rút hay thao tác cũng như lỗi của hệ thống tích hợp toàn cầu… mà những lỗi này không phải ngân hàng nào cũng ngăn chặn được. Vì vậy kiểm toán nội bộ cũng phải sử dụng công cụ hỗ trợ - đó là công nghệ thông tin.
Thứ ba: Các ngân hàng thường có mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong và ngoài nước. Điều này thường dẫn tới sự phân quyền lớn và sự phân tán trong chức năng kế toán và quản lý mà hậu quả là rất khó để duy trì được một hệ thống kế toán và những thông lệ hoạt động thống nhất trong một tổ chức, đặc biệt đối với các tổ chức đa quốc gia.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại thực hiện nhiều cam kết quan trọng, trong đó không ít những cam kết không có sự dịch chuyển về vốn. Những cam kết này về mặt kế toán là không được hạch toán mà phản ánh ở các tài khoản ngoại bảng, do đó việc phát hiện ra sai phạm (nếu có) là rất khó khăn khi nghiệp vụ bị bỏ sót. Vì thế có thể ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu xác nhận mức độ tin cậy của thông tin. Đặc biệt khi các công cụ tài chính phái sinh được các ngân hàng sử dụng. Những công cụ này vừa là công cụ kiếm lợi nhuận, vừa là công cụ phòng chống rủi ro nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sự phát triển của các công cụ này thường đi trước các nguyên tắc kế toán, kiểm toán cũng như các quy tắc giám sát khác. Điều này có thể chứa đựng những sai phạm trọng yếu ảnh hưởng tới tình hình tài chính của ngân hàng. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống kế toán ngân hàng với chức năng kiểm soát thông tin hiệu quả. Qua đó, kiểm toán nội bộ sẽ đánh giá chức năng kiểm soát thông tin của bộ phận kế toán có được thực hiện không để quyết định khối lượng công việc kiểm toán.
Thứ năm: Các Ngân hàng thương mại chịu sự tác động bởi nhiều chính sách, luật pháp khác nhau. Đồng thời cũng chịu sự thanh tra, giám sát của ngân
hàng Trung ương với các quy định, quy chế đặc biệt nhằm ngăn chặn các ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức hoặc có những hành vi kinh doanh gian lận. Những quy định, quy chế này sẽ tác động đáng kể tới những chuẩn mực, thông lệ kế toán và kiểm toán ngân hàng.
Thứ sáu: Kinh doanh ngân hàng thuộc loại kinh doanh rủi ro, có nhiều loại rủi ro rất nguy hiểm như: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động. Những rủi ro này thường xuất hiện ở nhiều loại sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, mà nguyên nhân gây ra không chỉ ở quản trị ngân hàng kém mà còn từ biến động của nền kinh tế hoặc từ rủi ro của khách hàng chuyển thành rủi ro của ngân hàng. Nếu không được giám sát liên tục, các loại rủi ro này có thể đẩy ngân hàng đi đến đổ vỡ nhanh chóng. Để quản trị ngân hàng thành công cần phải thiết lập và duy trì thường xuyên một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, đồng thời các nhà quản lý phải có kiến thức và kỹ năng cần thiết để giám sát và quản lý rủi ro. Đứng trên góc độ cuộc kiểm toán nội bộ, hiểu về bản chất rủi ro trong ngân hàng để xây dựng phương pháp, nội dung kiểm toán phù hợp.
1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động quản lý của Ngân hàng thương mại Nhà nước tác động tới tổ chức kiểm toán nội bộ
Công việc kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) ngoài chịu ảnh hưởng bởi các đặc điểm từ hoạt động kinh doanh như các NHTM nói chung, thì tổ chức này còn chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm hoạt động quản lý rất đặc thù như sau:
Thứ nhất, đặc trưng sở hữu vốn của Nhà nước (thể hiện ở Ngân hàng thương mại có 100% vốn Nhà nước và nhóm ngân hàng có cổ phần chi phối của Nhà nước) tại các NHTMNN đã ảnh hưởng tới các mục tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân hàng cũng như hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ các ngân hàng đó. Từ đặc trưng riêng về tính chất sở hữu vốn, về sự tách rời giữa người sở hữu và người quản lý, nên trong quá trình kinh doanh các NHTMNN luôn chịu sự chi phối và bị can thiệp từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý của Nhà
nước. Đồng thời các NHTMNN còn là đối tượng của hoạt động Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước về sử dụng vốn của Nhà nước. Mặt khác nếu các NHTMNN hoạt động hiệu quả, thì đây còn là nhóm công cụ để hỗ trợ Chính phủ, ngân hàng Trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện các chương trình an sinh xã hội. Do vậy trong quá trình xây dựng và vận hành các chính sách, thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ, các NHTMNN luôn chú ý tới các yêu cầu về quản lý và sử dụng nguồn vốn Nhà nước một cách hiệu quả.
Thứ hai, ngoài mục tiêu kinh doanh NHTMNN phải đảm bảo phục vụ mục tiêu xã hội theo các đề án, chương trình quốc gia của cơ quan quản lý Nhà nước theo từng giai đoạn. Quá trình thực hiện có thể diễn ra lâu dài, đòi hỏi nguồn vốn lớn, tạo nguy cơ rủi ro. Điều này đòi hỏi các kiểm toán viên nội bộ NHTMNN phải có sự hiểu biết về yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của ngân hàng, từ đó điều chỉnh chương trình kiểm toán, nội dung công việc kiểm toán, cũng như quá trình đánh giá rủi ro một cách thích hợp.
Việc nhận biết về đặc điểm hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung và NHTMNN nói riêng, cũng như ảnh hưởng của chúng tới hoạt động kiểm toán nội bộ sẽ giúp tổ chức kiểm toán này theo dõi và nhận biết sớm những loại rủi ro có thể xảy ra, xây dựng kế hoạch kiểm toán và triển khai công tác kiểm toán phù hợp với đặc thù hoạt động của ngân hàng và của nền kinh tế.
1.2.2. Nguyên tắc thiết kế, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ Ngân hàng thương mại và ảnh hưởng tới quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
1.2.2.1. Khái quát về nguyên tắc thiết kế, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ Ngân hàng thương mại của Uỷ ban Basel [37]
Một hệ thống KSNB hiệu quả là nền tảng cho sự hoạt động an toàn và lành mạnh của các ngân hàng. Hệ thống KSNB bao gồm toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và các thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động KSNB được thiết lập nhằm đạt
được các mục đích chủ yếu sau: (1) Sử dụng các nguồn lực và quản lý các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách hiệu quả (mục tiêu kết quả hoạt động);
(2) Đảm bảo cung cấp thông tin đáng tin cậy, phục vụ cho quá trình lập báo cáo tài chính kịp thời, hợp thức và hợp lệ (mục tiêu thông tin); (3) Bảo vệ tài sản và thông tin không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích (mục tiêu bảo vệ tài sản và thông tin); (4) Đảm bảo chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý đã được ngân hàng và cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành được thực hiện đúng thể thức và giám sát mức độ hiệu quả cũng như tính hợp lý của việc tuân thủ các quy định, luật lệ hiện hành (mục tiêu tuân thủ). Nếu hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả có thể giúp các mục tiêu của ngân hàng thực hiện được, ngược lại khi các thủ tục kiểm soát không được đầy đủ và/hoặc không được tuân thủ bởi một hệ thống KSNB yếu kém thì các thiệt hại, hoặc đổ vỡ của ngành ngân hàng có thể xảy ra.
Với một nỗ lực không ngừng nhằm giải quyết các vấn đề về giám sát ngân hàng và hoàn thiện quản lý rủi ro, Uỷ ban Basel đã đưa ra mô hình chung để đánh giá hệ thống KSNB của NHTM thông qua hệ thống mười ba nguyên tắc được xây dựng dựa vào năm nhân tố của hệ thống KSNB. Cụ thể bao gồm:
Một là: Giám sát quản lý và văn hoá kiểm soát, từ nguyên tắc từ số 1 đến số 3 với nội dung chính là đưa ra các chuẩn mực liên quan tới môi trường kiểm soát chung của ngân hàng như sau:
Trách nhiệm của HĐQT trong việc phê duyệt và định kỳ rà soát các chiến lược kinh doanh tổng thể và chính sách quan trọng của ngân hàng; nắm bắt, giám sát và kiểm soát những rủi ro lớn mà ngân hàng có thể gặp phải; phê duyệt cơ cấu tổ chức; đảm bảo thiết lập và duy trì một hệ thống KSNB đầy đủ và hiệu quả. HĐQT hướng dẫn và giám sát BĐH.
Trách nhiệm của BĐH trong việc thực hiện chiến lược và chính sách đã được HĐQT phê duyệt; xây dựng quy trình để đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro; duy trì cơ cấu tổ chức tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát; giám sát sự hiệu quả của hệ thống KSNB.
HĐQT và BĐH chịu trách nhiệm duy trì văn hoá kiểm soát trong ngân hàng đối với tất cả các cấp cán bộ.
Hai là: Nhận biết và đánh giá rủi ro ở nguyên tắc số 4. Theo đó để xây dựng một hệ thống KSNB hiệu quả thì cần phải nhận biết và đánh giá liên tục các rủi ro vật chất có thể ảnh hưởng xấu tới mục đích của ngân hàng. Việc đánh giá phải thực hiện với tất cả các loại rủi ro và diễn ra trên tất cả các cấp độ của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ có thể thay đổi để đối phó với rủi ro mới hoặc những rủi ro trước đây không giải quyết được.
Ba là: Các hoạt động kiểm soát phân tách trách nhiệm, ở nguyên tắc số 5,
6. Cụ thể: Một hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả cần có cơ cấu kiểm soát đúng đắn với các hoạt động kiểm soát được xác định ở tất cả các cấp của tổ chức và nên được thực hiện như công việc hàng ngày của ngân hàng. Hoạt động kiểm soát bao gồm: rà soát ở cấp cao nhất; kiểm soát thích hợp ở các phòng ban; kiểm soát vật chất; kiểm soát xử lý; kiểm soát quản lý; kiểm tra sự tuân thủ quy định về hạn mức rủi ro; thực hiện nguyên tắc kiểm soát.
Hệ thống KSNB hiệu quả còn cần có sự phân tách trách nhiệm phù hợp và các nhân viên không được giao những trách nhiệm gây xung đột. Cần có sự giám sát độc lập những lĩnh vực gây xung đột lợi ích.
Bốn là: Thông tin và liên lạc, từ nguyên tắc số 7 tới số 9. Theo đó: Một hệ thống KSNB hiệu quả cần có các số liệu về tuân thủ, hoạt động và tài chính nội bộ toàn diện và đầy đủ, cũng như thông tin bên ngoài liên quan tới việc ra quyết định. Thông tin phải đáng tin cậy, kịp thời, tiếp cận được và nhất quán.
Hệ thống thông tin đáng tin cậy bao gồm hệ thống lưu giữ và sử dụng thông tin điện tử, phải được bảo mật, giám sát độc lập và được hỗ trợ bởi các kế hoạch dự phòng độc lập.
Một hệ thống KSNB hiệu quả cần có kênh liên lạc hiệu quả để đảm bảo các nhân viên hiểu và tuân thủ theo các chính sách và thủ tục kiểm soát cần thiết.
Năm là: Các hoạt động giám sát và khắc phục hạn chế, từ nguyên tắc số 10 tới số 12. Cụ thể:
Tính hiệu quả tổng thể của hệ thống KSNB ngân hàng cần được giám sát thường xuyên. Giám sát rủi ro chủ chốt cần trở thành một phần hoạt động hàng ngày của ngân hàng cũng như hoạt động đánh giá thường kỳ của các bộ phận và kiểm toán nội bộ.
Việc kiểm toán nội bộ toàn diện và hiệu quả đối với hệ thống KSNB cần được thực hiện bởi cán bộ có năng lực, độc lập. Chức năng kiểm toán nội bộ là một phần của bộ máy giám sát hệ thống KSNB, cần báo cáo trực tiếp lên HĐQT, hoặc Uỷ ban kiểm toán và BĐH.
Những hạn chế trong KSNB phải được báo cáo kịp thời lên các cấp quản lý thích hợp và phải được giải quyết nhanh chóng. Những hạn chế về KSNB vật chất cần phải báo cho HĐQT và BĐH.
Cuối cùng là nguyên tắc 13 dành cho cơ quan Giám sát đánh giá hệ thống KSNB. Theo đó cơ quan Giám sát yêu cầu tất cả các ngân hàng phải có hệ thống KSNB hiệu quả, phù hợp với tính chất, độ phức tạp và rủi ro liên quan đến các hoạt động nội hoặc ngoại bảng cân đối kế toán và phản ảnh được những thay đổi trong môi trường và điều kiện của từng ngân hàng.
Tháng 6/2012, Ủy ban Basel đã ban hành một tài liệu hướng dẫn về chức năng kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng. Tài liệu này đã chỉ ra những thay đổi quan trọng từ tài liệu năm 2001 của Basel và ảnh hưởng tới những yêu cầu về giám sát ngân hàng, cũng như thực hành kiểm toán nội bộ ngân hàng [38].
1.2.2.2. Ảnh hưởng của các nguyên tắc thiết kế, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ tới quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
Từ mô hình chung giám sát hiệu quả hệ thống KSNB nêu trên, có thể thấy rằng hệ thống KSNB hợp lý là điều kiện tiên quyết để điều hành ngân hàng đi đúng hướng và thúc đẩy sự ổn định của cả hệ thống tài chính trong bối cảnh hiện nay.
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận của hệ thống kiểm soát nội bộ, hoạt động độc lập trong tổng thể hoạt động giám sát của ngân hàng. Bộ phận kiểm toán nội bộ là một phần quan trọng trong công tác giám sát thường xuyên cơ chế kiểm tra nội bộ, bởi vì nó có thể đưa ra đánh giá một cách khách quan về tính phù hợp và sự tuân thủ các nguyên tắc và quy trình đã được phê duyệt. Bộ phận kiểm toán nội bộ phải độc lập với các bộ phận chức năng trong ngân hàng; cũng như phải độc lập với các hoạt động thường xuyên của ngân hàng và được phép tiếp cận với tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng, kể cả các chi nhánh và công ty con.
Uỷ ban Basel khuyến nghị HĐQT các ngân hàng có thể thành lập Uỷ ban kiểm toán nội bộ để hỗ trợ HĐQT trong việc giám sát quá trình lập báo cáo tài chính và hệ thống kiểm soát nội bộ. Uỷ ban kiểm toán là nơi liên lạc trực tiếp của bộ phận kiểm toán nội bộ ngân hàng. Bộ phận kiểm toán nội bộ cần phải được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp lãnh đạo cao nhất của ngân hàng, thường là HĐQT, hoặc BĐH. Điều này nhằm đảm bảo cuộc kiểm toán nội bộ có thể được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắnvà độc lập.
Bộ nguyên tắc đánh giá HTKSNB của Basel cũng chỉ rõ các ngân hàng phải có hệ thống kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm xác định xem các chính sách và quy trình quản trị rủi ro của ngân hàng có được thực hiện không. Chức năng kiểm toán nội bộ độc lập với các chức năng hàng ngày của ngân hàng và có thể tiếp cận với tất cả các hoạt động ngân hàng thực hiện, bao gồm cả hoạt động ở chi nhánh và công ty con. Do vậy phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ là rộng, cho phép kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng đủ để đưa ra ý kiến nhận xét. Mặt khác thông qua việc báo cáo trực tiếp tới HĐQT, Uỷ ban kiểm toán và tới BĐH, sẽ cho phép kiểm toán nội bộ cung cấp thông tin khách quan, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cấp quản lý nào.
Tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ NHTM phải đầy đủ và toàn diện cả về bộ máy, nội dung, phương pháp, quy trình và kiểm soát chất lượng nhằm giúp hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng có thể nhận biết, đánh giá và giám sát các loại