Mở Rộng Nội Dung Và Phạm Vi Kiểm Toán Theo Hướng Liên Kết Các Loại Hình Kiểm Toán


điểm của từng đơn vị, vị trí của đơn vị trong tập đoàn. Hai là, Tính đa dạng trong ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn đòi hỏi các KTVNB phải linh hoạt trong đánh giá hoạt động theo từng loại hình hoạt động của tập đoàn. Ba là, để đảm bảo được tính linh hoạt trong hoạt động, KTNB trong các tập đoàn phải đảm bảo tính độc lập trong cả vị trí pháp lý và tổ chức hoạt động. Để đạt được điều này KTNB chỉ nên trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất. Điều này sẽ giúp cho KTNB có thể hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn phương thức tiến hành kiểm toán và cách thức tiếp cận kiểm toán. Bốn là, KTNB cần có một khung pháp lý cho hoạt động. Khung pháp lý này có thể là hệ thống chuẩn mực được xây dựng chung cho KTNB kết hợp với các quy chế của từng tập đoàn. Tuy nhiên, các chuẩn mực và quy chế chi nên mang tính hướng dẫn chứ không nên là ràng buộc chặt sẽ làm mất tính linh hoạt của KTNB.

Việc hoàn thiện tổ chức và đổi mới hoạt động KTNB đã trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi tập đoàn kinh tế. Mỗi tập đoàn kinh tế sẽ có những bước đi riêng đế xây dựng và hoàn thiện tổ chức KTNB để phù hợp với điều kiện kinh doanh và đặc điểm hoạt động của tập đoàn. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện phải có lộ trình cụ thể và phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau:

Thứ nhất: Hoàn thiện KTNB cần phù hợp với chủ trương của Đảng và Chính phủ, phải trong khung pháp lý của nhà nước và đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: "Tổng kết mô hình tổng công ty nhà nước, trên cơ sở đó có phương án xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế. Xem xét, sắp xếp lại những tổng công ty không phù hợp, hoạt động kém hiệu quả" [10, tr71]. Nghị quyết này thể hiện tư tưởng xây dựng tập đoàn kinh tế trên cơ sở những thành tựu và khắc phục những nhược điểm của các tổng công ty. KTNB cũng cần được xây dựng dựa trên quan điểm này. Tổ chức KTNB của các tập đoàn kinh tế cần dựa trên những thành tựu đã có trong tổ chức công tác và tổ chức bộ máy kiểm toán đã được xây dựng từ mô hình tổng công ty. Trên cơ sở đó điều chỉnh, thay đổi tổ chức KTNB cho phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đặt ra nhiệm vụ: "Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy


mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước... Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả" [11, tr10]. Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng thể hiện rõ xu hướng phát triển đa ngành và hội nhập kinh tế quốc tế của các tập đoàn kinh tế. Để có quy mô vốn lớn các tập đoàn kinh tế đã thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu, thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp thành viên và thúc đẩy niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp thành viên trên thị trường chứng khoán. Điểm mấu chốt của tất cả các doanh nghiệp khi cổ phần hóa và đặc biệt là niêm yết trên trên thị trường chứng khoán chính là "tính minh bạch" của thông tin. Điều này đòi hỏi bản thân KTNB phải phát triển theo xu hướng hoạt động linh hoạt, đa dạng trong nội dung thực hiện mới có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát đối với một đơn vị hoạt động đa ngành. KTNB cần thay đổi nội dung thực hiện, cơ chế hoạt động để có thể đóng vai trò quan trọng như một "cách thức kiểm soát mới" đối với các đơn vị trong tập đoàn kinh tế.

Hơn nữa, tổ chức KTNB phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Mỗi tập đoàn kinh tế đều chịu kiểm tra kiểm soát thường xuyên của các cơ quan chức năng do đó tổ chức KTNB phải theo các quy định của các cơ quan chức năng này. Đây được coi là điều kiện tiên quyết để bộ phận KTNB được công nhận và hoạt động. Hơn nữa, hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước sẽ chịu sự điều tiết chi phối của nhiều loại văn bản quy phạm pháp lý khác nhau do các mối quan hệ liên kết trong tập đoàn khá đa dạng. Đồng thời KTNB phải đảm bảo đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đó là các yêu cầu kiểm tra kiểm soát.

Thứ hai: KTNB phải được xây dựng phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm và trình độ quản lý. Mỗi tập đoàn khác nhau có quy mô, đặc điểm và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Không thể áp đặt một mô hình chuẩn nào cho tất cả các tập đoàn kinh tế mà phải xây dựng linh hoạt tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi tập đoàn. Với các tập đoàn có phạm vi hoạt động rộng, ngành nghề hoạt động đa dạng thì không thể duy trì bộ phận KTNB chỉ ở tập đoàn mà phải tổ chức KTNB trên diện rộng. Ngược lại, nếu tập đoàn chỉ hoạt động thuần tuý đơn ngành thì không nhất thiết phải tổ chức KTNB trên diện rộng tại tất cả các công ty con dễ gây lãng phí và mất tính hiệu quả của kiểm soát. Hơn nữa trình độ quản lý và yêu cầu quản lý của mỗi tập đoàn cũng khác nhau. Do đó, khi tổ chức


KTNB phải xác định được mục tiêu và yêu cầu quản lý của tập đoàn, xác định năng lực và trình độ quản lý của những người tham gia công tác điều hành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.

Thứ ba: KTNB phải được xây dựng và hoàn thiện đảm bảo tính độc lập trong tổ chức bộ máy và trong công tác kiểm toán. Về tổ chức bộ máy, bộ phận KTNB thực hiện chức năng đánh giá và xác nhận do đó phải tuân thủ theo yêu cầu cơ bản của việc thực hiện chức năng này là tính độc lập. Tính độc lập của bộ phận KTNB cần được đảm bảo trong quá trình hoạt động. Để đảm bảo tính độc lập, KTNB sẽ chỉ chịu sự chỉ đạo của lãnh đạo cao nhất và hoàn toàn tách rời với những bộ phận được kiểm tra. Về tổ chức công tác, KTNB phải đảm bảo tính độc lập trong chuyên môn và nghiệp vụ. Để đảm bảo được điều này, KTVNB sẽ không được tham gia các chức vụ quản lý khác trong tập đoàn. KTNB cũng được quyền độc lập trong chuyên môn, bảo lưu các ý kiến của mình. Ngoài ra, KTNB phải đảm bảo không bị những định kiến thiên lệch chi phối trong quá trình thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận.

Thứ tư: hoàn thiện KTNB phù hợp với thông lệ quốc tế của kiểm toán. Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong thời gian qua, sự hội nhập đó đã được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, WTO. Do đó các doanh nghiệp nhất là các tập đoàn sẽ chịu tác động lớn không những của môi của môi trường pháp lý của quốc gia mà còn chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế. Đặc biệt, các tập đoàn kinh tế hiện nay hoạt động không chỉ còn trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế. Điều đó đòi hỏi các tập đoàn kinh tế phải tổ chức hệ thống kiểm tra kiểm soát nói chung và hệ thống KTNB nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, các KTVNB ngày càng cần được quy chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ. Một số quốc gia phát triển như Mỹ, Canada đã tổ chức thi và cấp chứng chỉ KTVNB. Việc thi và cấp chứng chỉ đòi hỏi các KTVNB phải hoàn thiện về chuyên môn nghiệp vụ và đồng thời cũng tạo sự đảm bảo về chất lượng sử dụng thông tin từ KTNB.

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 21

Thứ năm: Xây dựng bộ máy kiểm toán phải đảm bảo đội ngũ KTVNB đủ về số lượng và đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Sự tồn tại và phát triển của KTNB phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và số lượng của đội ngũ KTV. Hơn nữa, hoạt động KTNB lại có chức năng đặc biệt trong doanh nghiệp nên càng đòi hỏi cao hơn nữa đối với KTV cả về chuyên môn cũng như phẩm hạnh đạo đức.


Thứ sáu: Bộ máy kiểm toán cần tạo ra các mối liên hệ rõ ràng trong tổ chức. Trong tổ chức bộ máy kiểm toán, cần xác định các mối liên hệ bên trong và bên ngoài của tổ chức KTNB. Căn cứ vào việc xác định trên, bộ phận KTNB sẽ có cơ sở pháp lý thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của mình đảm bảo hiệu quả của hoạt động kiểm soát.

Thứ bảy: Tổ chức KTNB phải đảm bảo" tính linh hoạt" và đảm bảo mục tiêu tiết kiệm, hiệu quả và hiệu lực. Khi tổ chức KTNB tại các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, có thể thấy rõ một vấn đế là các tập đoàn này có những đặc điểm riêng có so với các tập đoàn trên thế giới. Các tập đoàn kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại các đơn vị thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp hoặc các đơn vị sự nghiệp có thu. Ngoài ra, các tập đoàn kinh tế của Việt Nam đều tổ chức mô hình quản lý theo xu hướng điều chỉnh mô hình tổ chức của tổng công ty do đó trong bộ máy quản lý của tập đoàn vẫn duy trì các ban chức năng hoặc văn phòng điều hành. Các ban chức năng hoặc văn phòng điều hành làm nhiệm vụ giúp việc cho Ban giám đốc thực hiện các chức năng quản lý và điều hành hoạt động của công ty mẹ và điều chỉnh hay tác động vào hoạt động của công ty con dựa trên các mối liên hệ kinh tế. Điều này đòi hỏi KTNB trong các tập đoàn sẽ đóng vai trò một phương thức kiểm soát của chủ sở hữu đối với đơn vị thành viên đồng thời vẫn còn giữ vai trò kiểm tra kiểm soát của đơn vị cấp trên đối với cấp dưới. Như vậy, "tính linh hoạt" trong cơ chế hoạt động và phương thức thực hiện chính là một nguyên tắc quan trọng của KTNB trong tập đoàn.

Hơn nữa, khi tổ chức bất kỳ phương thức kiểm tra kiểm soát nào, nhà quản lý luôn cân nhắc đến tính hiệu quả và hiệu lực của phương thức đó. Do đó, KTNB cần được xem xét dựa trên quan điểm đảm bảo hiệu quả hoạt động và hiệu lực quản lý. Nhà quản lý các tập đoàn cần cân nhắc phương thức tổ chức KTNB nhằm đảm bảo chi phí bỏ ra không vượt quá lợi ích đem lại, không tạo ra cơ chế kiểm toán chồng chéo làm giảm hiệu lực của các chức năng kiểm soát khác. Khi xem xét đến tất cả những vấn đề này, nhà quản lý cần cân nhắc trong dài hạn chứ không xem xét trong chỉ trong ngắn hạn và xem xét trên cả các chỉ tiêu lượng hóa và phi lượng hóa.

Căn cứ vào các nguyên tắc và quan điểm hoàn thiện trên, các tập đoàn kinh tế có thể tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy KTNB phù hợp và hiệu quả.


3.4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

3.4.1. Hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế


3.4.1.1. Mở rộng nội dung và phạm vi kiểm toán theo hướng liên kết các loại hình kiểm toán

Mở rộng nội dung và phạm vi kiểm toán theo hướng liên kết các loại hình kiểm toán là một trong những ưu tiên hàng đầu của kiểm toán nội bộ các tập đoàn kinh tế của Việt Nam. Thực trạng khảo sát tại các tập đoàn kinh tế cho thấy mới chỉ có 2 trong số 15 đơn vị thành viên trong các tập đoàn tiến hành kiểm toán hoạt động và đã xây dựng quy trình đơn giản cho kiểm toán hoạt động. Mặc dù trong các quy chế KTNB của tất cả các tập đoàn được Tác giả khảo sát đều quy định nội dung và phạm vi công việc KTNB bao gồm: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị. Trên thực tế, KTNB của các tập đoàn mới chỉ thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính trong đó có lồng ghép kiểm toán tuân thủ. Như vậy, có thể nhận thấy một số loại hình kiểm toán mang đặc trưng của KTNB chưa được thực hiện một cách triệt để và đầy đủ: kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo kế toán quản trị. Điều này làm giảm giá trị của KTNB trong các doanh nghiệp rất nhiều dẫn đến sự cân nhắc của Ban điều hành tập đoàn và Giám đốc các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn về sự tồn tại của KTNB. Sự cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của nhà quản lý các doanh nghiệp trong tập đoàn hoàn toàn dễ hiểu do kiểm toán báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập tiến hành. Vì vậy việc chú trọng vào các nội dung kiểm toán như kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo kế toán quản trị là một trong những đề xuất đầu tiên của Tác giả. Hơn nữa, KTNB cần liên kết các loại hình kiểm toán với nhau chứ không thực hiện tách rời các loại hình kiểm toán. Theo khảo sát của tác giả, quá trình thực hiện kiểm toán liên kết hiện nay được thực hiện tại một số tập đoàn như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đều theo hướng kết hợp kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Tuy nhiên, ngoài độ tin cậy của thông tin kế toán về tài sản, nguồn vốn, doanh thu, thu nhập, chi phí, nhà quản lý trong các tập đoàn còn quan tâm đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng và tối đa hóa nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong cuộc điều tra của Ernst & Young năm 2008 đối với 348 trưởng bộ phận KTNB của các tập đoàn lớn ở 24 quốc gia cho thấy định hướng kiểm toán đã ngày


càng thay đổi, hướng nhiều hơn đến đánh giá rủi ro trên những nội dung rất rộng. Kết quả nghiên cứu của Ernst & Young chi rõ trong vòng hai năm trở lại đây, KTNB của các tập đoàn lớn đã tập trung vào kiểm toán hệ thống thông tin (75%), 61% tập trung vào kiểm toán các hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp, 53% tập trung vào kiểm toán các chương trình huy động vốn lớn, 45% hướng đến đánh giá hiệu quả hoạt động, 44% hướng đến đánh giá bảo mật thông tin và chỉ có 39% là hướng đến xem xét sai phạm trên báo cáo tài chính. Trong khi đó, những người đứng đầu bộ phận KTNB trong các tập đoàn đều đưa đến nhận định chỉ có 17% các đơn vị này là có quy trình đánh giá rủi ro hữu hiệu [80]. Như vậy, có thể thấy xu hướng quan tâm đến thông tin của nhà quản lý của các tập đoàn trên thế giới đã thay đổi tương đối lớn trong giai đoạn gần đây. Để đáp ứng với yêu cầu quản lý, KTNB cần có sự chuyển dịch nội dung kiểm toán.

Theo quan điểm của Tác giả dựa trên những đánh giá và khảo sát trên, KTNB trong các tập đoàn nên thực hiện kiểm toàn liên kết trong đó nội dung chủ yếu nhất cần thực hiện chính là kiểm toán hoạt động. Nội dung kiểm toán hoạt động là kiểm tra việc huy động phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật lực, hàng hoá, tài sản, tiền vốn, lợi thế kinh doanh…) của doanh nghiệp, kiểm tra tính hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, phân phối và sử dụng thu nhập, kết quả bảo toàn và phát triển vốn, kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh. KTNB trong các tập đoàn có thể vận dụng những định hướng nội dung thực hiện KTNB sau:

Thứ nhất : Kiểm toán chiến lược dài hạn và mục tiêu ngắn hạn của tập đoàn và các đơn vị thành viên. Đây là một xu hướng mới trong KTNB. Theo khảo sát của Tác giả, KTNB các tập đoàn mới chỉ dừng mức kiểm toán theo từng tác nghiệp đã thực hiện, 100% các đơn vị được khảo sát chỉ đánh giá báo cáo tài chính trong khi chưa có đơn vị nào đánh giá đến các chiến lược hoạt động của tập đoàn. Việc tiến hành thẩm định, đánh giá lại các chiến lược của tập đoàn là một đòi hỏi mới. Lý do đặt chiến lược vào đối tượng của KTNB chính là việc chiến lược hoạt động được coi là kim chỉ nam cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế hiện nay. Trong nhiều trường hợp, các tập đoàn đã tổ chức thực hiện theo chiến lược đã được xây dựng nhưng sau một thời gian ban điều hành tập đoàn mới nhận thấy chiến lược kinh doanh của tập đoàn không phù hợp. Khi đó, các doanh nghiệp thành viên trong


tập đoàn đã tốn kém một khoản chi phí không nhỏ. Trách nhiệm của KTNB là hạn chế những chiến lược sai hướng, làm giảm hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn.

Thứ hai : Kiểm toán việc khai thác, huy động và sử dụng các nguồn lực của đơn vị thành viên trong tập đoàn. Các nguồn lực được sử dụng bao gồm nguồn lực tài chính, nguồn lực nhân lực và nguồn lực tài nguyên. Đối với nguồn lực tài chính, KTNB phải đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Để đánh giá được hiệu quả, KTNB phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá và phương pháp đánh giá theo từng mặt hoạt động kinh doanh. Kết quả đánh giá này sẽ được sử dụng làm cơ sở để có thể giải thể hoặc chấm dứt hoạt động của những đơn vị, dự án hoạt động không hiệu quả. Đối với nguồn nhân lực, phòng KTNB có thể đánh giá hiệu quả sử dụng nhân lực, hiệu năng quản lý nhân lực. Cơ sở để đánh giá việc sử dụng nhân lực là năng lực chuyên môn và kết quả lao động. Đối với nguồn lực tài nguyên, KTNB cần xác định giới hạn của các nguồn lực và đánh giá việc sử dụng các nguồn lực tài nguyên theo giới hạn đã được xác định. Trong kiểm toán sử dụng nguồn lực tài nguyên, cần xem xét việc cân bằng các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp bao gồm tăng trưởng - phát triển - bền vững. Có những trường hợp doanh nghiêp thành viên không đảm bảo một trong ba mục tiêu có thể dẫn đến nguy có phải dừng hoạt động. KTNB thực hiện kiểm toán hoạt động sử dụng nguồn lực tài nguyên có thể được coi là một loại hình kiểm toán riêng-"kiểm toán môi trường" (Kiểm toán môi trường là công cụ quản lý bao gồm một quá trình đánh giá có tính hệ thống, định kỳ và khách quan được văn bản hoá về việc làm thế nào để thực hiện tổ chức môi trường, quản lý môi trường và trang thiết bị môi trường hoạt động tốt).

Thứ ba : Kiểm toán các phương án, chương trình hoạt động. Với mục tiêu và nguồn lực tương tự như nhau nhưng nhiều doanh nghiệp thành viên lại có kết quả hoạt động khác nhau. Điều tạo ra sự khác biệt trong kết quả chính là do phương thức thực hiện. Kiểm toán hoạt động cần xác định các phương án thực hiện, đánh giá phương án lựa chọn về tính hiệu quả và tính tiết kiệm. Trên cơ sở đó đưa ra nhận định về phương án, chương trình hoạt động đã được xây dựng, tham mưu cho ban giám đốc trong việc kịp thời điều chỉnh phương án hoặc thay đổi phương án.

Thứ tư : Đánh giá việc tuân thủ pháp luật, các quy chế hoạt động như quy chế tài chính, quy chế đầu tư của tập đoàn với khách thể là các đơn vị thành viên trong tập đoàn. Theo nguyên lý chung, các đơn vị thành viên trong tập đoàn sẽ hoạt


động dựa trên chiến lược chung của tập đoàn, chính sách hoạt động chung. Đây cũng chính là điểm mấu chốt tạo sức mạnh cho các tập đoàn. Vì vậy, KTNB sẽ xem xét việc tuân thủ pháp luật và qui định chung này nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của tập đoàn. Hơn nữa, KTNB có thể cần đánh giá đến tính hợp lý của những quy định ấy.

Trong loại hình kiểm toán hoạt động, tác giả muốn nhấn mạnh rằng, KTVNB phải hiểu được định hướng mục tiêu của kiểm toán hoạt động hoàn toàn khác với kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán hoạt động hướng đến tương lai còn kiểm toán báo cáo tài chính hướng đến nội dung thông tin trong quá khứ.

Về hình thức thực hiện, theo quan điểm của tác giả có thể tiến hành liên kết kiểm toán hoạt động với các loại hình kiểm toán khác nhằm đảm bảo hiệu quả của cuộc kiểm toán. Để làm được điều này, kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán cần được xây dựng và chuẩn bị kỹ lưỡng. Cuộc kiểm toán liên kết đó sẽ có những đặc trưng cơ bản sau:

Về nội dung, cuộc kiểm toán liên kết sẽ tập trung vào các nội dung kiểm toán hoạt động như đánh giá chiến lược hoạt động, đánh giá HTKSNB trong các đơn vị thành viên và đánh giá các tác nghiệp cụ thể. Các tác nghiệp cụ thể của KTNB có thể là các hoạt động mua hàng, bán hàng, marketing, nhân sự, lập dự toán... Bên cạnh đó KTNB sẽ cần quan tâm đến tính trung thực hợp lý của một số khoản mục trọng yếu trên bảng khai tài chính cùng việc tuân thủ pháp luật chế độ thể lệ.

Một nội dung mà KTNB các tập đoàn cần chú trọng là Kiểm toán báo cáo kế toán quản trị. Báo cáo kế toán quản trị là nguồn thông tin chủ yếu để đưa ra các quyết sách của tập đoàn, các quyết định kinh doanh của từng doanh nghiệp thành viên. Nếu nguồn thông tin này không được kiểm tra, đánh giá và xác nhận thì có thể dẫn đến những quyết định sai lầm của nhà quản lý. Theo Thông tư 53/2006/TT-BTC về hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp, báo cáo kế toán kế toán quản trị trong các doanh nghiệp có thể là báo cáo tình hình hình thực hiện (báo cáo giá thành sản phẩm, báo cáo chấp hành định mức lao động…) hoặc các báo cáo phân tích (phân tích chi phí - khối lượng - lợi nhuận, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và tài chính). Hiện nay, một số các báo cáo này được lập trong doanh nghiệp như một báo cáo phục vụ trong công tác ghi sổ và lập báo cáo tài chính. Hơn nữa, các doanh nghiệp rất ít tiến hành xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 10/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí