Quan Điểm Về Dạy Học Luyện Từ Và Câu Theo Hướng Phát Triển Năng Lực

của HS. GV được điều chỉnh thời lượng quy định cho mỗi tiết học sao cho phù hợp với chương trình và đặc điểm trình độ HS trong lớp trên cơ sở thống nhất của tổ, nhóm chuyên môn. Trân trọng và khuyến khích các cách giải quyết vấn đề của HS, giúp HS chọn cách giải quyết hợp lí nhất.

Dạy học theo hướng phát triển năng lực đòi hỏi các phương pháp đánh giá phù hợp để đo lường được mục tiêu giảng dạy vì đánh giá theo năng lực chủ yếu là đánh giá đầu ra nên quá trình đánh giá tập trung vào thu thập và phân tích các thông tin để có thể đánh giá được năng lực của HS so với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, để đánh giá theo năng lực đạt hiệu quả, GV cần đánh giá bằng nhiều hình thức và thông qua nhiều công cụ. Trong quá trình đánh giá, GV kết hợp bài kiểm tra với các công cụ đánh giá khác như phỏng vấn, quan sát HS, tham vấn ý kiến của bên thứ ba (phụ huynh, HS, các GV bộ môn...). Ưu điểm của phương pháp này là độ tin cậy của kết quả đánh giá cao, áp lực thi cử sẽ giảm bớt do bài thi nội dung kiến thức không còn là kết quả duy nhất quyết định sự tiến bộ trong học tập của HS.

Với sự ra đời của Thông tư 22/2016 TT-BGDĐT, đánh giá chất lượng học tập môn Tiếng Việt của HS có thể được thực hiện ở tất cả các tiết học theo quy định của chương trình nhằm mục đích đánh giá sự tiến bộ của HS, theo dõi, động viên, khuyến khích hay nhắc nhở HS học tập tiến bộ [6]. Đồng thời GV có thể điều chỉnh hoạt động dạy học nhằm đạt hiệu quả thiết thực được tiến hành dưới các hình thức quan sát, phỏng vấn HS qua hoạt động học tập, thực hành vận dụng kiến thức, kĩ năng; bằng bài kiểm tra định kì sau từng giai đoạn học tập, nhằm thu nhận thông tin cho GV điều chỉnh quá trình dạy học; thông báo cho gia đình nhằm mục đích phối hợp động viên, giúp đỡ HS học tốt hơn.

Với cách đánh giá này, tất cả HS đều tự thấy được sự tiến bộ của mình. Thông qua nhận xét và tự nhận xét, HS tự thấy mình hạn chế ở phần nào, nội dung nào trong quy trình học và sau đó bản thân đã cố gắng như thế nào để vượt qua những khó khăn đó, để đạt được mục tiêu học tập; mỗi HS đều có cơ hội

tham gia vào quá trình học tập, quá trình đánh giá; mỗi HS đều hoạt động, đều có nhiệm vụ và việc làm cụ thể, không khí học tập trở lên sôi nổi, kỉ luật, tích cực; HS có nhiều cơ hội tương tác, hợp tác, phát triển các kĩ năng, thái độ về giao tiếp, phương pháp trình bày, tạo niềm tin; GV có rất nhiều cơ hội để đánh giá các năng lực, phẩm chất cho các em.

Trong các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT những năm gần đây cũng đã hướng dẫn các địa phương, nhà trường tiểu học về việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực, cụ thể là:

- Công văn 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 23/10/2017 về việc hướng dẫn thực hiện chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS từ năm học 2017 - 2018 có ghi rõ: “Căn cứ chương trình GDPT hiện hành, lựa chọn các chủ đề, rà soát nội dung các bài học trong SGK hiện hành tương ứng với chủ đề đó để sắp xếp lại thành một số bài học tích hợp của từng môn học hoặc liên môn; từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục cho từng môn học, hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường”[9].

- Công văn Hướng dẫn nhiệm vụ năm học đối với giáo dục tiểu học năm học 2018-2019 và năm học 2019-2020 của Bộ GD&ĐT đã có chỉ đạo cụ thể là: “….Trên cơ sở chương trình GDPT hiện hành, các sở, phòng Giáo dục đào tạo giao quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục tiểu học xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực HS: Điều chỉnh nội dung dạy học một cách hợp lí đảm bảo yêu cầu, mục tiêu giáo dục tiểu học, phù hợp với đối tượng HS các vùng miền, đồng thời từng bước thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo hướng dẫn tại Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 và Công văn số 5131/BGDĐT-GDTrH ngày 01/11/2017 của Bộ GDĐT nhằm phát triển năng lực HS”.[10]

1.1.2. Quan điểm về dạy học Luyện từ và câu theo hướng phát triển năng lực

Trong khi dạy học theo định hướng nội dung lấy khối lượng kiến thức, kĩ năng làm mục tiêu cuối cùng thì dạy học theo định hướng phát triển năng lực lại chú ý đến mục tiêu phát triển năng lực. Nhưng điều đó không có nghĩa là xem

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

nhẹ kiến thức. Không có kiến thức thì không thể có năng lực. Kiến thức vẫn là một trong những yếu tố quan trọng để tạo ra năng lực. Dạy học phát triển năng lực giúp HS không chỉ mở mang kiến thức mà còn hiểu, biết cách tìm ra tri thức đó, biết tri thức đó giúp ích gì cho mình trong cuộc sống và vận dụng nó như thế nào, trong tình huống nào.

Để phát triển năng lực cho HS, việc xây dựng hệ thống bài tập là vô cùng cần thiết. Vận dụng quan điểm trên, bài tập luyện từ và câu được thiết kế để tăng cường những bài tập yêu cầu HS vận dụng kiến thức, kĩ năng về từ và câu đã học vào việc dùng từ và đặt câu trong nói và viết tiếng Việt.

Tổ chức dạy học Luyện từ và câu theo hướng phát triển năng lực trong môn Tiếng Việt lớp 5 - 4

Theo GS. TS. Nikko, thang đo Bloom gồm 6 bậc là quá chi tiết và tỉ mỉ. Điều đó thật khó áp dụng cho GV trong thực tiễn giảng dạy vì ranh giới giữa một số bậc không rành mạch. Quy định 4 bậc, gồm: bậc 1 - nhận biết; bậc 2 - thông hiểu; bậc 3 - vận dụng mức độ thấp; bậc 4 - vận dụng mức độ cao, là phù hợp với yêu cầu đánh giá ngày nay. Trong đó:

- Bậc nhận biết và bậc thông hiểu là hai yêu cầu cơ bản đối với mọi người học ở mọi trình độ;

- Bậc vận dụng mức độ thấp cũng là yêu cầu phổ biến, bắt buộc đối với hầu hết HS khi các em thường xuyên “Hoàn thành” nhiệm vụ học tập. Vận dụng ở mức thấp chính là yêu cầu vận dụng thông thường, đơn giản, giải quyết các tình huống tương tự hoặc gần gũi với những gì đã học.

- Bậc vận dụng mức độ cao là vận dụng tổng hợp, sáng tạo kiến thức, kĩ năng của môn học để giải quyết các tình huống nhiệm vụ khác với những gì được học hoặc nhiệm vụ của đời sống. Bậc vận dụng này chỉ đặt ra để xác định HS “Hoàn thành tốt” nhiệm vụ học tập.

Chính vì lẽ đó, nhằm dễ áp dụng cho GV trong thực tiễn giảng dạy và trong đánh giá định kì, Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ban hành ngày 22/9/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều quy định đánh giá HS tiểu học ban hành kèm theo Thông tư 30 (sau đây gọi là Thông tư

22) đã quy định rõ đề bài kiểm tra định kì phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo thang phân loại 4 bậc của Nikko để xác định mức độ nhận thức của HS:

- Mức 1: nhận biết, nhắc lại được kiến thức, kĩ năng đã học;

- Mức 2: hiểu kiến thức, kĩ năng đã học, trình bày, giải thích được kiến thức theo cách hiểu của cá nhân;

- Mức 3: biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết những vấn đề quen thuộc, tương tự trong học tập, cuộc sống;

- Mức 4: vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lí trong học tập, cuộc sống một cách linh hoạt.

GV có thể dựa vào 4 mức độ này để điều chỉnh, bổ sung các câu hỏi / bài tập trong các môn học ở tiểu học nói chung, môn Tiếng Việt nói riêng nhằm vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống hoặc tình huống mới. Thông qua các bài tập này, HS hiểu được mình học kiến thức đó để làm gì, có ích như thế nào trong cuộc sống. Khi bài học trở nên gần gũi, các em cũng sẽ yêu thích, hứng thú hơn và tích cực hơn trong giờ học.

Từ cách hiểu về 4 mức độ được quy định trong Thông tư 22, chúng tôi ứng dụng vào phân môn Luyện từ và câu như sau:

Mức 1 (Biết): Nhận biết được kiến thức tiếng Việt (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp...) đã được học.

Ví dụ: Tìm từ chỉ hoạt động, trạng thái của loài vật và sự vật trong những câu sau:

a) Con trâu ăn cỏ

b) Đàn bò uống nước dưới sông.

c) Mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ.

(Tiếng Việt 2, tập 1, trang 67)

Mức 2 (Hiểu): Tìm kiếm, đối chiếu, phân loại, miêu tả, giải thích được đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học.

Ví dụ: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với từ ước mơ:

a) Bắt đầu bằng tiếng ước. Mẫu: ước muốn

b) Bắt đầu bằng tiếng mơ. Mẫu: mơ ước

(Tiếng Việt 4, tập 1, trang 87)

Mức 3 (Vận dụng trực tiếp): Sử dụng được đúng các đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học để tạo ra lời nói.

Ví dụ:

Đặt câu với mỗi quan hệ từ: và, nhưng, của.

(Tiếng Việt 5 - tập một, trang 111)

Mức 4 (Vận dụng cao hay còn gọi là vận dụng trong tình huống mới hoặc có nội dung thực tiễn): Lựa chọn để sử dụng một đơn vị, kiểu loại đơn vị, một bộ phận nào đó một cách nghệ thuật hoặc vận dụng các đơn vị kiến thức tiếng Việt đã được học để tạo ra lời nói phù hợp với tình huống giao tiếp.

Ví dụ: Dựa theo ý một khổ thơ trong bài Sắc màu em yêu, hãy viết một đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích. Trong đoạn văn, chú ý sử dụng những từ đồng nghĩa.

(Tiếng Việt 5, tập một, trang 33)

Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào 4 mức độ trên để thiết kế hệ thống bài tập trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5.

1.1.3. Quan điểm về quy trình thiết kế bài học Luyện từ và câu theo hướng phát triển năng lực

Dạy học phát triển năng lực cho HS tức là GV cần phải tổ chức quá trình dạy học sao cho đạt được mục tiêu cuối cùng là phát triển năng lực cho người học. Muốn vậy, trước hết GV cần xác định đúng mục tiêu phát triển năng lực trong bài học cụ thể, đồng thời phải lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, hình thức kiểm tra, đánh giá cho phù hợp với mục tiêu ấy.[26]

Theo tác giả Nguyễn Hữu Hợp, quy trình các bước thiết kế bài học phát triển năng lực gồm các bước sau: [12]

Bước 1: Xác định mục tiêu bài học phát triển năng lực

Có thể nói trong các bước thiết kế bài học phát triển năng lực thì việc xác định mục tiêu có vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu sẽ quyết định việc lựa chọn các yếu tố còn lại của quá trình dạy học như: nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, kiểm tra đánh giá. Nếu mục tiêu xác định đúng thì việc phát triển năng lực mới có hiệu quả.

Mục tiêu dạy học truyền thống thường hướng đến hình thành kiến thức cho người học là chính. Điều này dẫn đến việc nội dung dạy học thường trình bày dưới dạng bày sẵn, nguồn tài liệu gần như duy nhất của GV là SGK; phương pháp dạy học chủ yếu mà GV áp dụng là thuyết trình, giảng giải cho HS, yêu cầu HS ghi chép, học thuộc lòng; GV thường đưa ra những bài tập mẫu và bày cho HS cách giải, HS chỉ cần làm theo như vậy là ra kết quả đúng. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là toàn lớp, cả lớp cùng nghe GV giảng, làm những bài tập như nhau; không gian học là lớp học, HS gần như không được học ở ngoài lớp học. Đối với việc kiểm tra, đánh giá, GV chủ yếu kiểm tra đánh giá việc HS nhắc lại được, học thuộc lòng kiến thức mà không biết các em tư duy như thế nào, tại sao ra kết quả đó.

Mục tiêu dạy học phát triển năng lực không chỉ là kiến thức, kĩ năng, thái độ mà quan trọng là cách thức HS đi từ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm đã có để đạt được kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm mới. Dạy học phát triển năng lực phải chỉ rõ 2 yếu tố: quá trình và kết quả. Quá trình HS học như thế nào? Giải quyết vấn đề gì? làm gì? thực hiện hoạt động gì? Kết quả là HS đạt được điều gì (về kiến thức, kĩ năng, hành vi, thái độ) thông qua hoạt động của mình?

Đối với bài học Luyện từ và câu, ngoài 3 mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, GV cần xác định năng lực chung và năng lực chuyên biệt cần phải hình thành cho HS sau bài học là gì. Mục tiêu của bài học đó giúp giải quyết nhiệm vụ nào của phân môn Luyện từ và câu, hình thành năng lực gì so với yêu cầu mà chương trình giáo dục đề ra.

- Bước 2: Xác định và lựa chọn nội dung bài học phát triển năng lực

Việc lựa chọn nội dung bài học phụ thuộc vào những yếu tố như: chương trình môn học, mục tiêu bài học, khả năng HS tiểu học; điều kiện thực hiện (phương tiện, thời gian, không gian, ...). Để xác định và lựa chọn bài học phát triển năng lực HS, GV cần thực hiện như sau:

+ Căn cứ vào nội dung Chương trình môn học: GV cần bám sát vào chương trình môn học để lựa chọn nội dung bài học.

+ Căn cứ vào mục tiêu bài học đã đề ra: Việc lựa chọn nội dung bài học phụ thuộc vào mục tiêu của bài học đó, hay nói cách khác, sau khi xác định mục tiêu bài học, GV sẽ lựa chọn nội dung bài cho phù hợp với mục tiêu đó. Nếu nội dung phù hợp thì bài dạy sẽ đạt được mục tiêu và ngược lại. Chẳng hạn, khi đã xác định mục tiêu phát triển năng lực trong bài học thì buộc người GV phải xác định và lựa chọn, thiết kế các bài tập, nội dung kiến thức mang tính thực tiễn để phát triển năng lực cho HS chứ không chỉ đơn thuần là các bài tập như trong SGK.

+ Làm cho nội dung bài học gắn liền với thực tiễn cuộc sống của các em, với điều kiện tự nhiên - xã hội của đất nước mà trước hết là thực tiễn địa phương nơi mà các em sống và học tập. Những kiến thức này không chỉ làm cho các em hứng thú với việc học ở trường mà còn hình thành cho các em năng lực thực tiễn.

+ Tăng cường nội dung thực hành, ứng dụng.

+ Lựa chọn nội dung dạy học vừa sức với HS, phân hóa được HS nhưng không quá dễ hay quá khó.

- Bước 3: Lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học phát triển năng lực

Phương pháp dạy học là cách thức, con đường GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Với mục tiêu dạy học phát triển năng lực, việc lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học cần đảm bảo các yêu cầu sau:

Thứ nhất, phải chú trọng đến phương pháp tự học của HS:

Tự học của HS phải được tổ chức theo con đường hợp lí sao cho phù hợp với logic khoa học của môn học và logic nhận thức của HS. Việc tự học của HS chủ yếu được tiến hành theo hình thức nhóm và cá nhân với sự hỗ trợ của những tài liệu, phương tiện, đồ dùng cá nhân thích hợp.

Tự học của HS không chỉ được thực hiện trên lớp mà còn ở thư viện, gia đình (qua sách, báo, tạp chí, mạng internet, ...), ngoài xã hội (quan sát, điều tra,...) để mở rộng, làm giàu kiến thức, kinh nghiệm của mình và phát triển các năng lực. [26]

Thứ hai, phải tổ chức việc học tập qua những hoạt động của HS:

Những hoạt động được tổ chức phải là của HS, dành cho HS (mà không phải GV) nhằm mục tiêu phát triển năng lực HS với những phương pháp dạy học tích cực như: Giải quyết vấn đề, Hỏi - đáp (giữa GV với HS, HS với HS), Thảo luận nhóm, Đóng vai, Trò chơi học tập, Dự án, ....

Thông thường, theo logic nhận thức, một bài học có thể được tổ chức qua các hoạt động sau:

- Khởi động: Hoạt động này nhằm giúp HS huy động những gì sẵn có của mình cho bài học mới hoặc đơn thuần là nhằm tạo ra bầu không khí học tập vui vẻ, thân thiện, gần gũi.

- Hình thành kiến thức: Việc hình thành kiến thức mới thường được thực hiện qua trải nghiệm, trên cơ sở HS giải quyết một vấn đề cụ thể, khái quát hóa thành kiến thức, ...

- Hoạt động thực hành: HS vận dụng kiến thức chiếm lĩnh được vào việc thực hiện các bài tập, tốt nhất là những nội dung chứa đựng các yếu tố liên quan đế cuộc sống của mình, thực tiễn địa phương, ...

- Hoạt động ứng dụng: Hoạt động này thường được HS thực hiện ở gia đình, cộng đồng, nơi công cộng trên cơ sở vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống.

- Hoạt động mở rộng: Trong trường hợp thuận lợi, HS tìm kiếm, mở rộng bài học thông qua các kênh thông tin khác nhau, nhất là internet, sách báo, ...

Thứ ba, coi trọng phát triển tư duy của HS:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/09/2023