cần tập trung có trọng tâm, trọng điểm hơn, mạnh hơn, nhiều hơn, chặt chẽ hơn để đảm bảo an toàn, hiệu quả cho cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
1.1.3. Đặc điểm kinh tế nông nghiệp và những tác động đến tín dụng ngân hàng
1.1.3.1. Mang tính thời vụ cao
Tính thời vụ trong phát triển KTNo như là một tất yếu nên không thể xoá bỏ được mà chỉ tìm cách thích nghi với nó. Về cơ bản, mùa màng chủ yếu phải theo thời vụ, đồng loạt xuống giống, đồng loạt thu hoạch, đồng loạt phải tiêu thụ và như vậy cũng là đồng loạt vay, đồng loạt trả nợ vay. Thu hoạch đồng loạt sẽ làm cho cung nông sản hàng hóa tăng dễ bị “thừa” trên thị trường nên thường bị rớt giá, ảnh hưởng đến thu nhập và nguồn trả nợ của người sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm tính thời vụ của KTNo tác động mạnh đến TDNH, buộc ngân hàng cũng phải thích nghi với tính thời vụ để bố trí nguồn vốn và sử dụng vốn sao cho có sự phù hợp và hiệu quả, kể cả cho vay để trữ nông sản hàng hóa làm “giảm” tạm thời nguồn cung trên thị trường khi vào thời vụ thu hoạch, trong đó chú trọng canh tác “thời vụ” trái mùa để có thể bán được cao giá hơn.
1.1.3.2. Năng suất giới hạn bởi thuộc tính sinh học, giới hạn về số lượng sản phẩm, khó bảo quản, dự trữ chịu tác động mạnh của thị trường
Năng suất trong sản xuất của KTNo bị giới hạn bởi thuộc tính sinh học của cây trồng và vật nuôi dưới sự tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên. Công nghệ cao cũng chỉ có thể tác động trong chừng mục lẽ tự nhiên đó. Sản phẩm của KTNo bao gồm cả trong nông nghiệp, chế biến là có giới hạn sinh học, khó bảo quản do dễ hư hỏng, sút kém phẩm chất và còn bị chi phối mạnh bởi thị trường. Do đó việc tăng cường TDNH cũng cần tính đến đặc điểm sinh học, sản lượng, khả năng bảo quản, dự trữ nông sản để tránh rủi ro, bởi nếu vì một lý do nào đó sản xuất KTNo bị rủi ro dẫn đến sút kém thu nhập sẽ có nguy cơ không trả được nợ vay ngân hàng.
1.1.3.3. Phụ thuộc nguồn nước, môi trường tự nhiên và mang tính khu vực rõ rệt
Có thể bạn quan tâm!
- Những Thống Nhất Cơ Bản Của Các Công Trình Nghiên Cứu Trước
- Tình Hình Thu Thập Phiếu Khảo Sát Cá Nhân Đối Với Từng Địa Phương Trên Địa Bàn Vùng Kttđ Vùng Đbscl
- Lý Luận Cơ Bản Về Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
- Lý Luận Cơ Bản Về Tăng Cường Tín Dụng Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp
- Nhóm Các Chỉ Tiêu Phản Ánh Chất Lượng Tín Dụng
- Hạn Chế Rủi Ro Đối Với Tăng Cường Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp
Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.
Ngày nay dù khoa học công nghệ phát triển cao nhưng hoạt động sản xuất của KTNo vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn nước, nhất là nước ngọt và môi trường tự
nhiên, đặc biệt là khí hậu. Nguồn nước và môi trường tự nhiên không giống nhau giữa các vùng đã làm cho sản xuất KTNo mang tính khu vực, vùng rất rõ nét. Biến đổi khí hậu thất thường và bất lợi gây khó khăn cho phát triển KTNo. Đặc điểm này cho thấy TDNH chỉ có thể tập trung tài trợ cho sự phát triển KTNo theo lợi thế so sánh của vùng, nên hạn chế hoặc từ chối cho vay theo kiểu con gì cũng nuôi, cây gì cũng trồng theo kiểu phong trào chạy theo thị trường một cách “mù quáng”.
1.1.3.4. Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu
Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại “khan hiếm” vì bị giới hạn bởi diện tích tự nhiên, không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan. Tuy nhiên dùng công nghệ cao tác động theo lẽ tự nhiên có thể khai “chiều sâu” của ruộng đất nhằm nâng cao chất lượng ruộng đất. Như ở Thái Lan hiện nay, nông dân rất chú trọng khảo sát đất trước khi quyết định nuôi trồng gì, bón thêm gì để nâng cao hiệu quả canh tác. Đặc điểm này tác động mạnh đến TDNH.
1.1.3.5. Từ sản xuất nông nghiệp lên kinh tế nông nghiệp thường thiếu vốn
Thực tế ở nhiều nước có nền nông nghiệp sản xuất nhỏ thu nhập của người nông dân không cao, cho nên tích lũy vốn dành cho phát triển KTNo thường rất khó khăn và hạn chế, thiếu vốn là một vấn đề luôn đặt ra cần giải quyết. Cái khó lớn cần giải quyết đó là làm sao phá vỡ được vòng luẩn quẩn thiếu vốn đầu tư, kỹ thuật sản xuất thấp, năng suất thấp, thu nhập thấp dẫn đến tích lũy thấp,… và lại là thiếu vốn, khả năng trả nợ vay ngân hàng là khá bấp bênh. Do vậy tăng cường TDNH phát triển KTNo cần chú trọng giải quyết vấn đề vốn đầu tư, không thể mãi cho vay dàn trải mà cần cho vay có sự tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, để cho vay đến đâu chắc chắn đến đó, có hiệu quả cao.
Tóm lại, đề cập những điểm cơ bản của KTNo cho thấy dù ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất gắn chặt với thị trường để đảm bảo hiệu quả nhưng “gốc” của nó vẫn là ngành sản xuất gắn chặt và chịu sự tác động của tự nhiên. Tự nhiên ngày càng khắc nghiệt nhất là chịu sự tác động bất thường của biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tăng. Bản thân KTNo vẫn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro lớn theo vòng luẩn quẩn được mùa rớt giá. Những đặc điểm đó cho thấy tính phức tạp, khó khăn
không chỉ với KTNo mà cả TDNH. Không chỉ KTNo mà cả TDNH luôn phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lớn, do đó tăng cường TDNH phát triển KTNo phải gắn chặt với tăng cường quản lý rủi ro tín dụng.
1.1.4. Vai trò của vùng kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế
1.1.4.1. Cung cấp sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh cao cho nền kinh tế và xuất khẩu
Vùng KTTĐ vốn là vùng có ưu thế trong sản xuất những sản phẩm có lợi thế so sánh nên có sức cạnh tranh cao. Tùy thuộc vào lợi thế vốn có vùng KTTĐ mà có thể cung cấp những sản phẩm công nghiệp hay nông nghiệp hoặc dịch vụ cho nền kinh tế và xuất khẩu. Chẳng hạn Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL của Việt Nam có thế mạnh là KTNo sản xuất nông sản hàng hóa nên có thể cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu chất lượng cao cho nền kinh tế và xuất khẩu.
1.1.4.2. Giải quyết việc làm cho người lao động
Vùng KTTĐ là nơi tập trung các cơ sở, các tổ chức kinh tế, các khu công nghiệp với mật độ cao nên có khả năng trực tiếp tạo ra nhiều việc làm và thu hút một lực lượng lao động (LLLĐ) lớn trong xã hội. Không những thế vùng KTTĐ còn tác động gián tiếp tạo ra nhiều việc làm cho nền kinh tế thông qua liên kết trong chuỗi giá trị gắn kết giữa sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu thông sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế và xuất khẩu. Chẳng hạn ở Việt Nam phân bố khu công nghiệp theo các khu vực trọng điểm như Trung tâm công nghiệp chế biến nông thủy sản và năng lượng của vùng ĐBSCL bố trí tại thành phố Cần Thơ với tổng diện tích các khu công nghiệp khoảng 1.500 - 1.800 ha bao gồm các khu công nghiệp tại Trà Nóc, Ô Môn, Thốt Nốt; các trung tâm năng lượng, công nghiệp chế biến thủy sản với quy mô khoảng 2.000 - 2.400 ha phân bố chủ yếu tại năm tỉnh trong đó có tỉnh Cà Mau và Kiên Giang thuộc Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL [22,23,24,25]. Vai trò giải quyết việc làm cho người lao động sẽ góp phần nâng cao tính toàn dụng lao động cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.4.3. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế
Vùng KTTĐ trong quá trình phát triển hình thành nên trung tâm kinh tế và thường trong đó có một số tỉnh, TP. là hạt nhân cho phát triển của cả vùng và khu vực. Chẳng hạn như ở Việt Nam Vùng KTTĐ Bắc bộ có Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh là hạt nhân, Vùng KTTĐ Miền Trung có Đà Nẵng, Vùng KTTĐ phía Nam có TP. Hồ Chí Minh (HCM), Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL có TP. Cần Thơ là hạt nhân. Vùng KTTĐ với lợi thế của mình trở thành nơi cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế như tư liệu sản xuất hiện đại, năng lượng, công nghệ kỹ thuật cao, chuỗi cung ứng và logicstics hiện đại, giao thông vận tải, thông tin,… Việc cung ứng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.4.4. Đầu tàu trong ứng dụng, phổ biến khoa học kỹ thuật cho các vùng khác
Vùng KTTĐ là vùng kinh tế động lực nên có xu hướng đầu tàu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Vùng KTTĐ không chỉ có vai trò đầu tàu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật mà còn là nơi có nhiều viện nghiên cứu, trường đại học có điều kiện để đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật với vai trò là trung tâm nghiên cứu, nhất là tại các tỉnh, TP. hạt nhân của vùng và trở thành nơi phổ biến ứng dụng khoa học cho các vùng khác và cho nền kinh tế đất nước. Chẳng hạn ở Việt Nam Vùng KTTĐ phía Bắc, Vùng KTTĐ phía Nam, Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL thể hiện vai trò đầu tàu trong ứng dụng và phổ biến khoa học kỹ thuật, Hà Nội, TP. HCM, Cần Thơ với tư cách là hạt nhân của vùng KTTĐ đã và đang thể hiện rõ hơn vai trò đầu tàu trong ứng dụng, nghiên cứu, phổ biến khoa học kỹ thuật của Vùng KTTĐ và cho nền kinh tế. Vai trò đầu tàu trong ứng dụng, nghiên cứu, phổ biến khoa học kỹ thuật góp phần nâng cao trình độ tổ chức, quản lý, năng lực sản xuất theo hướng hiện đại sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.4.5. Tăng thu cho ngân sách Nhà nước
Vai trò của vùng KTTĐ như đã đề cập ở trên cho thấy vùng có tiềm năng sức mạnh về KTXH, ưu thế về sản xuất, có lợi thế về những sản phẩm, nhóm sản phẩm cung cấp cho nền kinh tế và xuất khẩu nên có nguồn thu lớn và bền vững trong nền
kinh tế, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước. Chẳng hạn ở Việt Nam: có “bốn vùng KTTĐ gồm Bắc Bộ, miền Trung, phía Nam và ĐBSCL, có tổng diện tích chiếm 27,42% diện tích cả nước, dân số chiếm 51,27% cả nước. Thời gian qua, các vùng KTTĐ đã có những đóng góp đáng kể. Tỷ trọng Tổng sản phẩm nội địa (GRDP) của các vùng KTTĐ so với cả nước đã tăng từ 51% năm 2003 lên khoảng 70% GRDP giai đoạn 2010-2015. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước năm 2015 gấp 1,37 lần năm 2010. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2015 chiếm 84% tổng thu cả nước, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 70,3% của giai đoạn 1998-2010. Tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước của các vùng cao hơn trung bình cả nước 2-3%” [22,23,24,25].
Vai trò to lớn của vùng KTTĐ đối với nền kinh tế như một tất yếu, vấn đề quan trọng là để vùng KTTĐ đảm đương được vai trò động lực, đầu tầu của mình cần được đầu tư thỏa đáng, nhất là vốn. Một mình vốn TDNH không thể đảm bảo được nhu cầu vốn cho vùng KTTĐ mà cần huy động tổng lực các nguồn vốn trong và ngoài nước. Về lý thuyết mà nói thì vốn TDNH chủ yếu chỉ cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy nguồn vốn bao gồm vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhưng nguồn vốn này thường ít ỏi không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển; nguồn vốn ngân sách Nhà nước dưới hình thức cấp phát trực tiếp cho các công trình đầu tư xây dựng cơ bản như giao thông, thủy lợi… nhưng vốn ngân sách Nhà nước cũng rất hạn hẹp và thường rơi vào đầu tư bị dàn trải thiếu đồng bộ, kém hiệu quả; vốn đầu tư nước ngoài thiếu sự ổn định thật sự và thường tập trung khai thác theo phương thức “gia công” nên tăng tính phụ thuộc cho nền kinh tế, giá trị gia tăng không đáng kể; trong bối cảnh như vậy vốn TDNH được trông chờ là nguồn vốn quan trọng đầu tư góp phần phát triển vùng KTTĐ. Do đó cần có định hướng, có kế hoạch huy động các nguồn vốn tuy còn hạn chế để đầu tư tập trung, đồng bộ, mạnh mẽ có thể và đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ tránh thất thoát, tránh rủi ro để đảm bảo an toàn và hiệu quả của đầu tư làm cho vùng KTTĐ phát triển sớm đảm đương được vai trò đầu tầu, động lực thúc đẩy các vùng khác và nền kinh tế đất nước phát triển.
Đối với vùng KTTĐ mà thế mạnh là KTNo thì KTNo vùng KTTĐ còn đảm đương vai trò như vai trò cơ sở của nông nghiệp nhưng ở mức độ cao hơn, tập trung hơn. Cụ thể: [i] KTNo cung cấp lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của con người là có ăn để sinh tồn và phát triển. [ii] KTNo cung cấp nguyên liệu thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển. [iii] KTNo cung cấp ngoại tệ và cung cấp vốn ban đầu cho phát triển nền kinh tế, nhất là vốn cho CNH,HĐH. [iv] KTNo góp phần phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài nước. [v] KTNo góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế. [vi] KTNo cung cấp nhân lực cho các ngành khác trong nền kinh tế. [vii] KTNo đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
[iix] KTNo góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên sinh thái. [ix] KTNo góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng.
1.2. Tổng quan lý luận về tăng cường tín dụng ngân hàng phát triển kinh tế nông nghiệp vùng kinh tế trọng điểm
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế chỉ sự vay mượn quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức theo thỏa thuận khi đến hạn một cách vô điều kiện. Một trong những hoạt động chủ yếu mang tính truyền thống của NHTM là hoạt động tín dụng. Ở Mỹ định nghĩa: “NHTM mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính” [47]. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính" [47]. Tại Việt Nam, theo Điều 20, Luật các TCTD có định nghĩa về hoạt động cấp tín dụng của các TCTD trong đó có NHTM: “Cấp tín dụng là việc TCTD thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” [67]
Theo đó về cơ bản khái niệm tín dụng NHTM như sau: Tín dụng NHTM là tín dụng và cũng là một phạm trù kinh tế chỉ quan hệ vay mượn hay sự giao dịch về tài sản trong nền kinh tế giữa một bên là ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng một lượng tài sản nào đó của mình cho bên vay theo cam kết bên vay phải hoàn trả cả vốn và lãi một cách vô điều kiện cho ngân hàng trên cơ sở thỏa thuận của các bên thông qua các nghiệp vụ NHTM.
1.2.1.2. Bản chất đặc trưng tín dụng ngân hàng thương mại
Bản chất tín dụng NHTM là quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở niềm tin và có hoàn trả cả vốn lẫn lãi vay. Bản chất TDNH thể hiện ở quá trình vận động của tín dụng trong nền kinh tế theo ba giai đoạn chủ yếu sau: [i] Ở giai đoạn cho vay: Ngân hàng cấp tín dụng sẽ chuyển tiền hoặc tài sản khác từ ngân hàng sang người đi vay, ngân hàng cho vay không mất quyền sở hữu vốn hoặc tài sản đó. [ii] Ở giai đoạn sử dụng vốn tín dụng: Người vay được toàn quyền sử dụng trực tiếp giá trị của vốn tín dụng để thoả mãn nhu cầu của mình trong sản xuất kinh doanh, tiêu dùng trong thời gian thỏa thuận. Người đi vay không có quyền sở hữu giá trị vốn hay tài sản vay.
[iii] Ở giai đoạn hoàn trả tín dụng: Vốn tín dụng sau khi đưa vào sản xuất trở về hình thái tiền tệ và người đi vay trả lại cho ngân hàng gồm phần gốc và lãi vay. Như vậy vốn đưa vào hoạt động tín dụng đã sinh lợi cho người sở hữu nó.
Vấn đề này trong bộ Tư Bản Karl Marx cũng chỉ rõ: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định." [49]
Bản chất TDNH thể hiện qua những đặc trưng của nó là lòng tin, thời hạn và sự hoàn trả khoản vay. Cụ thể: [i] Tín dụng là có lòng tin: Trong quan hệ tín dụng lòng tin được biểu hiện từ cả hai chủ thể. Trong đó lòng tin của ngân hàng cho vay đối với người đi vay quan trọng hơn bởi họ đã giao phó tài sản của ngân hàng cho người khác sử dụng. [ii] Tín dụng là có tính thời hạn: Ngân hàng cho vay chỉ bán giá trị quyền sử dụng của khoản vay chứ không bán giá trị của nó, phần lợi tức là
giá bán quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định. [iii] Tín dụng có tính hoàn trả: Đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc thời hạn vay theo hợp đồng tín dụng, vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho ngân hàng kèm theo một phần lãi như đã thoả thuận. Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với đầy đủ các đặc trưng trên.
1.2.1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Những vai trò cơ bản của TDNH trong nền kinh tế:
- TDNH thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và góp phần đầu tư phát triển kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- TDNH là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và thúc đẩy các ngành mũi nhọn của đất nước.
- TDNH góp phần tác động các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế để sử dụng vốn hiệu quả nâng cao hiệu quả hoạt động.
- TDNH là công cụ quan trọng trong việc tổ chức cải thiện đời sống nhân dân
- TDNH góp phần tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài.
1.2.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tùy vào cách tiếp cận có thể phân loại tín dụng NHTM, cụ thể: Căn cứ vào thời hạn cho vay có tín dụng ngắn hạn; tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay có tín dụng cho sản xuất, lưu thông hàng hoá và tín dụng tiêu dùng. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng có tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn có tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định. Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng có chiết khấu thương phiếu, cho vay, bảo lãnh (tái bảo lãnh) và cho thuê tài chính. Phân loại TDNH cho biết cơ bản từng nội dung, đặc điểm của từng loại TDNH để có thể có những cách thức quản trị phù hợp đối với từng loại hình tín dụng nhằm