Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 4


CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ DANH MỤC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Khái niệm cho vay của ngân hàng thương mại

Cho vay là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, trong xã hội, như chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, cá nhân … Cho vay tạo ra sự luân chuyển vốn giữa một bên cần vốn và một bên có vốn nhà rỗi. Nhà kinh tế học Pháp Louis Baundin, đã định nghĩa cho vay là “một sự trao đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa tương lai”.


Người cho vay


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

Người cho vay

Giá trị (hàng hoá ­ tiền tệ) Người đi vay

Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 4

Giá trị (hàng hoá ­ tiền tệ)+ lãi Người đi vay


Cho vay là sự vận

động của

giá trị từ người

cho vay sang người đi

vay và sẽ quay về với người cho vay cả vốn và lãi trong kỳ hạn xác định.

Cho vay là sự chuyển

nhượng

tạm thời

quyền sử một

lượng

giá trị từ

người sở hữu sang người sử dụng sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Tóm lại: “Cho vay là quan

hệ kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó chủ thể này

chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hoá hoặc tiền tệ) với những điều kiện và trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.”


Chức năng cơ bản của hệ thống NHTM ngày nay là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Một trong những dịch vụ quan trọng nhất là cho vay, đặc biệt là thực hiện những khoản cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các thành viên trong xã hội. Những khoản cho vay này tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả các cá nhân trong xã hội đều vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn rằng họ là những người được hưởng lợi gián tiếp từ hoạt động cho vay. Ta có thể hiểu khái niệm của hoạt động này như sau: “Cho vay của NHTM là quan hệ kinh tế giữa NHTM và một chủ thể trong nền kinh tế (cá nhân hoặc tổ chức), trong đó NHTM sẽ cho chủ thể này quyền sử dụng một lượng tiền tệ với những điều kiện và thời gian nhất định mà hai bên đã thỏa thuận dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.”

Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng, để tài trợ cho chi tiêu của các tổ chức kinh tế và các cá nhân [37]. Đối với hầu hết khách hàng, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, nguồn vốn của ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Ngay sau khi các hoạt động nhận tiền gửi đầu tiên hình thành, các ngân hàng sơ khai đã sử dụng các khoản tiền gửi của khách hàng để cho những người có nhu cầu mượn lại, trên cơ sở đó hình thành hoạt động cho vay của ngân hàng. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Cho vay là chức năng kinh tế lâu đời nhất của ngân hàng, là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.

Cùng với sự

phát triển nhanh chóng của nền kinh tế

hiện đại, hoạt

động của các NHTM cũng có những bước thay đổi quan trọng: từ những ngân hàng với hình thức kinh doanh giản đơn là nhận tiền gửi và cho vay lại, các ngân hàng đã dần thiết lập mô hình kinh doanh tổng hợp, các tập


đoàn tài chính đa quốc gia, mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hóa các

sản phẩm tài chính. Ngày nay, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng vô

cùng đa dạng, ngoài hoạt động cho vay còn có hoạt động thanh toán, hoạt động kinh doanh ngoại hối, đầu tư chứng khoán, mua bán nợ, cung cấp các sản phẩm phái sinh…Nhờ vậy, doanh thu và lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng tăng lên nhanh chóng, góp phần thúc đẩy sự phát triển đa dạng, rộng khắp trên toàn thế giới.


Vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Hoạt động cho vay có vai trò quan trọng đối với các cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể như sau:

Thứ

nhất, cho vay của NHTM

là hoạt động cơ

bản kết nối những

nguồn vốn nhàn rỗi với những người thực sự có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động này làm tăng thu nhập cho những người chưa có kế hoạch đầu tư nói chung và những khoản tiền nhàn rỗi nói riêng, đồng thời làm tăng khả năng hoạt động của những người có nhu cầu về vốn là doanh

nghiệp hay cá nhân. Có thể nói, hoạt động cho vay phát triển chung của cả nền kinh tế [21].

của NHTM

tạo ra sự

Thứ hai, bằng việc cho vay NHTM đã tạo ra khối lượng tiền tệ lớn trong nền kinh tế. Khi NHTM cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Toàn bộ hệ thống NHTM đã tạo ra khối lượng tiền lớn khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một NHTM sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì

sẽ tạo nên khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng

khác tại một NHTM khác tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không có một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn


bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng) [23].

Thứ ba, bằng việc cho vay với lãi suất ưu đãi cho một số dự án phát triển mang tính chất chiến lược, cho vay của NHTM cũng là hoạt động tài trợ nằm trong chính sách của chính phủ để phát triển đất nước. Thông qua cho vay, NHTM cũng giúp chính phủ thực thi các chính sách an sinh xã hội.

Thứ tư, cho vay của NHTM là hoạt động mang lại thu nhập chính, lợi nhuận cao cho ngân hàng, dùng chi trả các khoản lãi tiền gửi huy động và các khoản chi phí quản lý, trang thiết bị, tiền lương và các khoản chi phí khác để duy trì hoạt động của NHTM.

Danh mục cho vay của ngân hàng thương mại

Khái niệm danh mục cho vay của ngân hàng thương mại

Danh mục ­ portfolio trong từ điển kinh tế Anh ­ Việt được định nghĩa

là tập hợp các loại chứng khoán, tài sản do một cá nhân hoặc một số tổ

chức tài chính sở hữu, bao gồm các loại cổ phiếu, chứng khoán, chứng chỉ ký thác, hàng hóa, tiền mặt và bất động sản để hạn chế rủi ro trong đầu tư. Bản thân thuật ngữ danh mục đã mang ý nghĩa về sự đa dạng các loại tài sản dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro.

Với vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế, mặc dù cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ khác nhau, thì các khoản cho vay vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục tài sản của các NHTM. So sánh với lợi nhuận

từ những hoạt động dịch vụ, đầu tư thì lợi nhuận do các khoản cho vay

mang lại vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể

với

NHTM. Do đó, danh mục

cho vay là một phần quan trọng trong danh mục tài sản của bất kỳ NHTM nào. Danh mục cho vay được định nghĩa theo một số cách sau:

một

Theo OCC (1998): “Danh mục cho vay

của NHTM

là sự

kết hợp

nắm giữ các khoản cho

vay đối với các đối

tượng khách hàng khác nhau

thuộc các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, thuộc khu vực địa lý khác nhau.


Mục đích của sự kết hợp trong danh mục cho vay là làm giảm rủi ro bằng cách đa dạng hoá danh mục cho vay của NHTM” [75].

Theo David (2003), “Danh mục cho vay của NHTM bao gồm các khoản vay đã được giải ngân hay mua lại. Danh mục cho vay là tài sản chính của các NHTM, giá trị của nó không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận thu được từ các khoản vay mà còn phụ thuộc vào chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản vay” [55].

Theo từ điển kinh tế, “Danh mục cho vay của NHTM là toàn bộ các khoản cho vay của NHTM sở hữu tại một thời điểm xác định” [47].

Từ những định nghĩa kể trên, ta có thể hiểu về danh mục cho vay của

NHTM thông qua khái niệm:

“Danh mục cho vay của

NHTM là một tập

hợp các khoản cho vay do ngân hàng nắm giữ, được phân loại theo các tiêu thức khác nhau với một cơ cấu tỷ lệ nhất định nhằm phục vụ cho các mục đích quản trị của NHTM”.

Nhà quản trị sử dụng danh mục cho vay để định hướng hoạt động cấp

tín dụng, đảm bảo tính lành mạnh, mức độ

chuyên môn hóa, sự

đa dạng

của tài sản cho vay, giảm thiểu rủi ro ở mức tối đa cho ngân hàng và mang

lại lợi nhuận như mong muốn. Vì vậy mà danh mục cho vay được xây

dựng theo kế hoạch (định hướng) và được quản lý thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng. Thông qua thiết kế danh mục cho vay kế

hoạch, các nhà quản trị

đưa ra con số

dự kiến tỷ

trọng dư

nợ của từng

ngành kinh tế/ khu vực địa lý ... chiếm trong tổng thể danh mục. Việc thiết kế một danh mục cho vay phù hợp với thực lực, tiềm năng, tuân thủ các quy định của pháp luật và theo định hướng phát triển của ngân hàng có vai trò tiên quyết cho thành công của ngân hàng. Báo cáo thực hiện danh mục cho vay là công cụ để nhà quản trị nhìn nhận, phân tích các khoản cho vay đã thực hiện dưới các góc nhìn khác nhau, tạo điều kiện để đánh giá tổng thể chất lượng của toàn danh mục, từ đó mà có các biện pháp điều chỉnh


hợp lý theo diễn biến thị ngân hàng.

trường nhằm đạt mục tiêu đã hoạch định của

Đặc điểm danh mục cho vay của ngân hàng thương mại

Danh mục cho vay của NHTM là một danh mục tài sản truyền thống, mang lại thu nhập cao do đó có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Danh mục cho vay của NHTM thường có một số đặc điểm khác biệt với các danh mục tài sản khác như sau:

Thứ

nhất, danh mục cho vay

của NHTM

có tính đa dạng cao. Do

được hình thành từ nhiều khoản cho vay riêng lẻ nên danh mục cho vay của bất kỳ ngân hàng nào đều rất đa dạng, phong phú. Điều này được thể hiện qua sự phong phú từ đối tượng khách hàng, lĩnh vực ngành nghề, thời hạn cho vay đến khu vực địa lý của các khoản vay trong danh mục cho vay [50].

Thứ hai, danh mục cho vay của NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản và là danh mục mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Ta đã biết đặc trưng hoạt động của một NHTM là nhận tiền gửi và kinh doanh tiền gửi, trong đó hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của kinh

doanh tiền gửi. Do vậy, danh mục cho vay của NHTM luôn được các nhà

quản lý chú trọng quan tâm nhằm hướng tới mục tiêu gia tăng lợi nhuận tối đa cho ngân hàng [50].

Thứ ba, danh mục cho vay của NHTM tiềm ẩn rủi ro và kết cấu danh mục cho vay không ổn định. Các khoản mục cho vay trong danh mục cho vay thường xuyên có sự thay đổi vì vậy kết cấu của danh mục cho vay luôn thay đổi về tỷ trọng đối với khách hàng, lĩnh vực ngành nghề và khu vực địa lý…Bên cạnh đó, đặc thù hoạt động cho vay là tiềm ẩn sự bất cân xứng thông tin hay thông tin không đầy đủ nên các khoản vay riêng sẽ luôn tồn tại rủi ro riêng. Chính vì vậy, danh mục cho vay của NHTM không những tồn tại rủi ro của các khoản vay riêng lẻ mà còn tiềm ẩn rủi ro của cả danh mục [50].


Thứ

tư,

tính thanh khoản của danh mục cho vay của NHTM được

đánh giá là kém linh hoạt và mềm dẻo hơn danh mục đầu tư trong tổng tài sản của ngân hàng. Các khoản cho vay có tính thời hạn, đảm bảo cân xứng với kỳ hạn huy động vốn, chính vì vậy việc điều chỉnh danh mục cho vay nhằm đáp ứng thanh khoản của ngân hàng không dễ dàng [75].

Cấu trúc danh mục cho vay của ngân hàng thương mại


Danh mục cho vay

của NHTM

là tập hợp các khoản các khoản cho

vay riêng lẻ được sắp xếp dựa trên một số tiêu chí nhất định. Việc phân

loại một cách khoa học các khoản cho vay giúp NHTM nâng cao chất

lượng quản trị danh mục cho vay. Hơn nữa, còn góp phần đánh giá chất

lượng cho vay và định hướng quản trị danh mục cho vay nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro cho ngân hàng.

Sau đây là một số tiêu chí mà các NHTM thường sử dụng để phân loại các khoản cho vay trong danh mục cho vay:

a. Thời hạn cho vay

Thời hạn cho vay là khoảng thời gian khách hàng được sử dụng nguồn vốn của NHTM, được tính từ ngày tiếp theo của ngày ngân hàng giải ngân vốn vay cho khách hàng cho đến thời điểm khách hàng phải trả hết nợ gốc và lãi tiền vay theo thỏa thuận của ngân hàng và khách hàng. Việc xây dựng danh mục cho vay hướng tới các khoản cho vay ngắn hay dài phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng, nhu cầu vốn của nền kinh tế, nhằm hạn

chế

các loại rủi thanh khoản, rủi ro lãi suất, đảm bảo tuân thủ

quy định

của pháp luật.

Thời hạn cho vay được chia làm 3 loại như sau:

Thứ nhất, cho vay ngắn hạn. Đây là loại cho vay có thời hạn từ một năm trở xuống. Loại cho vay này thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.


Thứ hai, cho vay trung hạn. Đây là loại cho vay có thời hạn từ trên 1

năm đến 5 năm. Cho vay trung hạn thường được sử

dụng để

tài trợ

cho

mục đích mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công

nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.

Thứ ba, cho vay dài hạn. Đây là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, nhằm mục đích đầu tư hình thành mới tài sản cố định, xây dựng các dự án lớn, thời gian thu hồi vốn dài [23].

b. Ngành nghề, lĩnh vực kinh tế


Theo ngành nghề

kinh tế,

danh mục cho vay của NHTM

được chia

theo các lĩnh vực hoạt động của khách hàng như xây dựng, nông nghiệp,

viễn thông, dầu khí, bất động sản… Mỗi ngành nghề kinh tế có những đặc điểm khác nhau, chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan khách nhau vì vậy tùy từng thời kỳ mà mức độ rủi ro của mỗi ngành nghề sẽ khác nhau.

Danh mục cho vay theo tiêu thức này có ý nghĩa rất lớn đối với các

NHTM, kể cả

trong khâu hoạch định kế

hoạch cũng như

trong tổ

chức

thực hiện. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế hình thành một định

hướng cần thiết cho quá trình đầu tư tín dụng của ngân hàng. Những ngành nào cần tập trung, mở rộng, những ngành nào cần tiết giảm... sẽ được thể hiện thông qua tỷ trọng xác định của từng ngành trong tổng thể dư nợ của danh mục. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế bộc lộ rõ quan điểm của ngân hàng là tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên chuyên môn hóa hay đa dạng hóa cho vay. Nhằm hạn chế rủi ro thì danh mục cho vay theo ngành của

ngân hàng càng đa dạng sẽ càng tốt. Nhưng điều này lại đối ngược với

phương hướng phát triển chuyên môn hóa để chiếm lĩnh những thị trường riêng của một số ngân hàng [21].

c. Khu vực địa lý

Xem tất cả 233 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí