Cải Tạo Và Phát Triển Các Doanh Nghiệp Tập Thể Ở Thành Phố Và Thị Trấn Dưới Nhiều Hình Thức.


kinh tế công hữu”. Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tập thể là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế công hữu, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện cùng giàu có”. Kinh tế tập thể ngày càng được coi trọng, Trung Quốc đã có những chính sách điều chỉnh kết cấu chế độ sở hữu và các biện pháp cải cách nhằm khuyến khích thành phần này phát triển.

1.1.1. Cải tạo và phát triển các doanh nghiệp tập thể ở thành phố và thị trấn dưới nhiều hình thức.

Để thúc đẩy các doanh nghiệp tập thể phát triển, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu doanh nghiệp và cơ cấu hàng hoá. Phương pháp điều chỉnh cơ cấu chủ yếu là: Thứ nhất, khuyến khích liên hợp, hợp nhất, tổ chức liên hợp lớn trong nội bộ ngành nghề không kể khu vực, không kể chế độ sở hữu, căn cứ vào yêu cầu của quy mô kinh tế mà liên hợp các DNV&N thành doanh nghiệp loại lớn hoặc tập đoàn doanh nghiệp. Thứ hai, đối với ngành nghề mà khả năng sản xuất quá đỗi dư thừa thì chia nhỏ ra, lấy một bộ phận trong đó đưa vào ngành nghề được xem là điểm tăng trưởng kinh tế mới và các ngành nghề có liên quan với điểm tăng trưởng kinh tế mới sẽ sản xuất những linh kiện hoặc tham gia sản xuất kinh doanh sản phẩm có liên quan tới sản phẩm chủ đạo của ngành nghề này. Thứ ba, thực hiện chế độ hợp tác cổ phần. Chế độ này thích hợp nhất với những doanh nghiệp nhỏ dưới 100 người. Có một số doanh nghiệp hợp tác cổ phần qua liên hợp, hợp nhất đã từ doanh nghiệp nhỏ trở thành doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn.

1.1.2. Chuyển đổi thể chế thúc đẩy doanh nghiệp tập thể hương trấn phát triển.


Từ sau năm 1993, cuộc cải cách doanh nghiệp hương trấn của Trung Quốc đã chuyển từ cải cách chế độ nội bộ như lao động, nhân sự...sang cải cách chế độ quyền sở hữu tài sản, kết cấu vốn khiến cho việc bố trí sắp xếp các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp được tối ưu hoá thêm một bước. Các chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tập thể hương trấn phát triển bao gồm:


Thứ nhất, chế độ hợp tác cổ phần ở các doanh nghiệp tập thể hương trấn được cải tổ xây dựng lại và phát triển mạnh.

Thứ hai, nhà nước tiến hành đồng bộ các biện pháp cải cách doanh nghiệp hương trấn như khoán, cho thuê, sát nhập, bán…nhằm phát huy đầy đủ năng lực sản xuất hiện có, quay vòng vốn tồn đọng, tăng cường hiệu quả của cải cách. Thông qua cải cách, các doanh nghiệp đã thực hiện việc bảo tồn và tăng giá trị của vốn tập thể, phát huy tính tích cực của người kinh doanh, tối ưu hoá cơ cấu vốn, bố trí sắp xếp các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Thứ ba, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp hương trấn dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật, coi trọng quản lý khoa học, nâng cao chất lượng và hiệu quả doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã liên kết “sản xuất - học tập - nghiên cứu” với các viện, các trường đại học, các đơn vị nghiên cứu khoa học. Các đơn vị nghiên cứu khoa học có chuyên gia, có kỹ thuật, các doanh nghiệp hương trấn có vốn, có mặt bằng. Họ liên kết khiến cho những thành quả nghiên cứu khoa học nhanh chóng chuyển hoá thành sức sản xuất. Trong việc liên kết này, các doanh nghiệp hương trấn không những tăng thêm hiệu quả kinh tế mà tự mình trở thành một bộ phận hữu cơ của tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Thứ tư, trong bối cảnh mở cửa, Trung Quốc còn khuyến khích các doanh nghiệp hương trấn lựa chọn chiến lược phát triển mới. Phải coi khai thác thị trường ngoài nước là mục tiêu mới để có chiến lược phát triển đi ra thế giới, tham gia vào cạnh tranh thị trường quốc tế. Qua một thời gian kinh doanh hướng ngoại, một số doanh nghiệp đã đạt được sự phát triển không ngừng trong lĩnh vực kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được thị trường thế giới ở một số mặt hàng như: vali, túi xách,...

Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 7

Tới nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hương trấn hầu như đề cập đến mọi lĩnh vực, từ sản xuất hàng tiêu dùng đến sản xuất tư


liệu sản xuất cho sản xuất công nông nghiệp và các ngành dịch vụ khác. Doanh nghiệp hương trấn đã tạo ra và phát triển một loạt thị trường hàng hoá mang tính chuyên nghiệp, tính tổng hợp. Sự phát triển của doanh nghiệp hương trấn ngày càng mạnh, cung cấp hiệu quả và làm phong phú thêm thị trường thành thị và nông thôn, phát huy vai trò tích cực trong việc ổn định vật giá và khống chế lạm phát.

1.1.3. Đi sâu cải cách doanh nghiệp quốc hữu loại nhỏ thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển

Với chủ trương cải cách doanh nghiệp quốc hữu, Đại hội XIV ĐCS Trung Quốc năm 1992 chỉ ra: “Có thể cho thuê hoặc bán một số doanh nghiệp quốc hữu loại nhỏ cho các tập thể, cá nhân kinh doanh”. Hội nghị TW 3 khoá XIV năm 1993 nhấn mạnh: “Các doanh nghiệp quốc hữu loại nhỏ có thể thực hiện chế độ khoán kinh doanh, cho thuê vốn kinh doanh, có thể chuyển sang chế độ hợp tác cổ phần, cũng có thể bán cho tập thể hoặc cá nhân”.Từ đó đến nay, nhiều địa phương đã tích cực tìm tòi nhiều hình thức cải cách doanh nghiệp quốc hữu loại nhỏ. Rất nhiều doanh nghiệp quốc hữu loại nhỏ áp dụng hình thức chuyển nhượng có bồi hoàn tài sản quốc hữu cho công nhân viên chức doanh nghiệp. Những công nhân viên chức góp vốn mua, cùng tham gia cổ phần, cải tổ thành chế độ hợp tác cổ phần.

Sau năm 1993, đặc biệt là sau 1995, sau hội nghị TW 7 khoá XIV ĐCS Trung Quốc, Trung Quốc đã đưa ra chủ trương “nắm lớn buông nhỏ” nhằm tạo sự chuyển biến quan trọng trong cải cách doanh nghiệp quốc hữu. Thực chất “nắm lớn buông nhỏ” là bỏ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước ở trong các DNV&N thuộc các lĩnh vực cạnh tranh thông thường để tập trung vào chuyển đổi cơ chế kinh doanh các doanh nghiệp lớn, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Do vậy, trong 2 năm 1995-1996, việc cải tổ chế độ hợp tác cổ


phần doanh nghiệp tập thể thành thị đã trải ra trên diện rộng, trở thành hình thức lựa chọn đầu tiên của cải cách doanh nghiệp tập thể.

Tóm lại, thông qua việc đi sâu cải cách, chuyển đổi cơ chế, cải cách sâu sắc quyền tài sản, xây dựng cơ cấu chế độ sở hữu hợp lý đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường, Chính phủ Trung Quốc đã củng cố được vai trò chủ thể của chế độ công hữu, khiến cho kinh tế chế độ công hữu không ngừng lớn mạnh và phát triển.

1.2. Khuyến khích kinh tế phi công hữu phát triển


Trước khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, chế độ phi công hữu được xem là “đối lập” không thể cùng tồn tại với chế độ công hữu. Chế độ phi công hữu bị coi là “cái đuôi của CNTB”, dẫn tới nền kinh tế trì trệ trong thời gian dài, nguồn lực bị lãng phí nghiêm trọng. Sau cải cách mở cửa, Trung Quốc cho phép thành phần kinh tế phi công hữu phát triển, coi nó là “sự bổ sung cần thiết” của nền kinh tế quốc dân. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận ra rằng sức sản xuất của Trung Quốc chưa được xã hội hoá, chỉ thực hiện chế độ công hữu đơn thuần sẽ không có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Trải qua thời gian, chế độ phi công hữu dần dẫn được chú trọng, từ chỗ chỉ đóng vai trò “bổ sung” cho khu vực kinh tế công hữu chuyển sang “cùng phát triển”. Các doanh nghiệp thuộc thành phần phi công hữu từng bước phát triển trở thành điểm tăng trưởng kinh tế quan trọng, góp phần giải quyết những khó khăn ngành nghề, nâng cao mức sống nhân dân. Tuy nhiên, sự phát triển của nó không ảnh hưởng tới sự khống chế và tác dụng chủ đạo của kinh tế quốc hữu đối với kinh tế quốc dân. Các chính sách Trung Quốc đã áp dụng để thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế phi công hữu gồm:

1.2.1. Tạo dựng môi trường pháp lý bình đẳng


Hiện nay, Nhà nước Trung Quốc qua hệ thống văn bản đã không còn sự phân biệt lớn giữa khu vực kinh tế công hữu và phi công hữu, và trong nhiều trường hợp còn khuyến khích kinh tế phi công hữu. Để tạo dựng một môi trường pháp lý bình đẳng cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp, đề ra nhiều chính sách.

Trước hết, Nhà nước bảo đảm quyền lợi tài sản tư hữu như tài sản công hữu, không cho ai xâm phạm.

Thứ hai là thu thuế công bằng


Ba là, bình đẳng về cơ hội tiến vào thị trường, xóa bỏ những lo lắng cho khu vực phi công hữu, khuyến khích tăng đầu tư sản xuất, mở rộng quy mô kinh doanh nâng cấp doanh nghiệp. Chẳng hạn như:

Về vấn đề vay vốn, các ngân hàng thương nghiệp Nhà nước, ngân hàng hợp tác thành phố, ngân hàng hợp tác nông thôn không phân biệt tính chất chế độ sở hữu mà dựa vào nguyên tắc hiệu quả và phương hướng ngành nghề để cho vay.

Về chính sách trưng dụng đất, Nhà nước áp dụng biện pháp gọi thầu, đấu thầu, cho phép các doanh nghiệp phi công hữu được quyền sử dụng đất.

Về hạch toán kinh doanh, cho phép các doanh nghiệp phi công hữu hạch toán theo mức độ bình quân của doanh nghiệp cùng nghề, cùng thứ bậc với các doanh nghiệp thuộc loại sở hữu khác.

Về tư pháp, những tài sản tư hữu hợp pháp được Nhà nước bảo vệ. Đối với những cán bộ trong nội bộ doanh nghiệp tư doanh lợi dụng chức quyền để ăn cắp, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp thì Nhà nước căn cứ theo Luật hình sự để định tội. Đối với các doanh nghiệp “đội mũ giả” (những doanh nghiệp mũ đỏ do tư nhân quản lý núp dưới bóng sở hữu tập thể để hưởng ưu đãi từ chính quyền), Nhà nước thông qua đánh giá tài sản, thay đổi


quyền tài sản bằng nhiều hình thức như dân doanh hoá, cổ phần hoá, tách rõ quyền tài sản của doanh nghiệp tập thể và quyền tài sản của doanh nghiệp cá thể tư doanh, từng bước đi tới thanh lý doanh nghiệp.

Về quản thuế, Nhà nước tăng cường quản lý thuế, nghiêm khắc chống lại kinh doanh phi pháp. Các hộ kinh doanh cá thể, tư doanh phải xây dựng chế độ kế toán theo điều lệ hữu quan và nộp thuế theo quy định. Đối với việc trốn thuế, lậu thuế Nhà nước tăng cường xử phạt, nghiêm trị những hành vi kinh doanh phi pháp, ngăn chặn kinh doanh không có giấy phép.

Về quản lý hành chính, lấy quản lý huyện, thị làm cơ sở, thống nhất quản lý đối với doanh nghiệp hộ cá thể và tư doanh trong cả nước.

Về chính sách đầu tư, tiếp tục mở cửa với bên ngoài, tích cực thu hút vốn nước ngoài, mở cửa rộng hơn thị trường trong nước. Cải thiện môi trường đầu tư, mở rộng lĩnh vực đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công trình cơ sở, ngành nghề có kỹ thuật cao mới và cải tạo các doanh nghiệp cũ. Tích cực tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng đãi ngộ quốc dân, từng bước thống nhất các loại thuế và mức thuế cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, dựa vào pháp luật để hoàn thiện việc quản lý đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

1.2.2 Khuyến khích các doanh nghiệp phi công hữu tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng, vốn cổ phần tư nhân, vốn trên thị trường chứng khoán

Về nguồn vốn ngân hàng, theo công bố của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, 3/4 tất cả các khoản cho vay từ các tổ chức tài chính của Trung Quốc được xếp vào loại các khoản vay vốn lưu động. Trong đó tỷ lệ các khoản vay vốn lưu động của các ngân hàng và các tổ chức tài chính dành cho khu vực kinh tế phi công hữu đã tăng lên đáng kể. Nhà nước dành 20% tổng vốn cho


vay của 4 ngân hàng nhà nước lớn trong nguồn tín dụng chính thức cho khu vực tư nhân. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức là quy mô doanh nghiệp nhỏ và tính không chính thức của doanh nghiệp. Các ngân hàng không muốn cho các doanh nghiệp nhỏ vay trước hết là vì số tiền vay quá nhỏ để ngân hàng có thể kiếm lời từ đó, thứ 2 là vì các doanh nghiệp này hầu hết không có sổ sách tài chính minh bạch, không được kiểm toán. Do vậy, các ngân hàng rất ngần ngại khi cho vay vì chi phí liên quan đến việc xác định chính xác thông tin tài chính của doanh nghiệp tư nhân lên rất cao, đôi khi lại lớn hơn doanh nghiệp lớn.

Về nguồn vốn cổ phần tư nhân, do bị hạn chế trong việc tiếp cận vốn nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân đã tiếp cận tới vốn cổ phần tư nhân. Các thị trường cổ phần tư nhân ở Trung Quốc, đặc biệt là thị trường vốn mại hiểm đầu tư cho việc phát triển khu vực công nghệ cao mới chỉ ở giai đoạn trứng nước. Gần đây Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đã thành lập quỹ vốn mạo hiểm. Nhiều nơi, các chính quyền địa phương cũng rất quan tâm đến việc phát triển các khu công nghệ cao của mình, họ đã thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn để làm phương tiện thu hút đầu tư. Do Nhà nước thiếu một thị trường cổ phần tư nhân có tổ chức và phát triển để cung cấp vốn dài hạn cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, các công ty kinh doanh chứng khoán, các sở giao dịch tài sản, các quỹ tín dụng uỷ thác và các công ty đầu tư đã tạo điều kiện để đầu tư tư nhân tham gia vào việc cấp vốn cổ phần cho các doanh nghiệp tư nhân. Không chỉ vậy các doanh nghiệp nhà nước lớn được niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng tham gia cung cấp vốn kinh doanh mạo hiểm cho các công ty tư nhân công nghệ cao đang tăng trưởng.

Về nguồn vốn trên thị trường chứng khoán, cho đến nay, thị trường chứng khoán ở Trung Quốc chủ yếu là để cấp vốn cho các doanh nghiệp quốc


hữu trong việc cải cách các doanh nghiệp này. Mặc dù không có điều nào trong Luật chứng khoán hoặc trong các quy định hành chính công khai ngăn cản các doanh nghiệp phi quốc hữu niêm yết ra công chúng, nhưng hệ thống hạn ngạch và các đòi hỏi về quy mô đã hạn chế số lượng công ty tư nhân tham gia vào thị trường này. Chỉ tới gần đây, Trung Quốc mới có một vài thị trường chứng khoán khu vực dành cho các DNV&N. Những thị trường này được các chính quyền địa phương công nhận và quản lý. Đa số các thị trường này hoạt động rất tốt và đã giúp tài trợ cho việc tăng trưởng của doanh nghiệp tư nhân địa phương. Nhưng hệ thống thị trường này không chính thức và mang tính cát cứ một cách cứng nhắc buộc Trung Quốc phải đóng cửa một số thị trường này khi tiến hành cải tổ thị trường tài chính. Tháng 12-1998, Luật Chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được ban hành. Những quy tắc mới trong luật đã mở đường cho các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước mua cổ phiếu loại A, dẫn đến sự có mặt nhiều hơn các tổ chức đầu tư trên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Tháng 3-2000, “Uỷ ban quản lý chứng khoán Trung Quốc” công bố xoá bỏ hệ thống hạn ngạch về niêm yết và người bảo lãnh phát hành sẽ quyết định thời điểm và việc định giá các chứng khoán mới. Chủ trương này được thực hiện là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp phi công hữu giành được nguồn vốn dài hạn. Thông qua thị trường cổ phiếu, các doanh nghiệp này sẽ có điều kiện để huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán nhiều hơn.

1.2.3 Khuyến khích các doanh nghiệp phi công hữu đầu tư vào các ngành khoa học kỹ thuật

Từ đầu những năm 1990 đến nay, các cơ quan Trung Quốc và các ban ngành hữu quan ở các địa phương đã đưa ra một số chính sách và quy định pháp luật khuyến khích các doanh nghiệp phi công hữu đầu tư vào các ngành

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí