Vai Trò Của Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế


Formatted: Default Paragraph Font, Font: (Default) Times New Roman, 11 pt, Bold

Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Bold, Vietnamese



Khu vực

Doanh nghiệp siêu

nhỏ


Doanh nghiệp nhỏ


Doanh nghiệp vừa


Số lao động

Tổng nguồn

vốn


Số lao động

Tổng nguồn vốn


Số lao động

II. Công nghiệp và xây dựng

10 người trở xuống

20 tỷ đồng trở xuống

Từ trên 10

người đến 200 người

Từ trên 20 tỷ

đồng đến 100 tỷ đồng

Từ trên 200

người đến 300 người

III. Thương

mại

và dịch vụ

10 người trở xuống

10 tỷ đồng trở xuống

Từ trên 10

người đến 50

người

Từ trên 10 tỷ đồng đến 50

tỷ đồng

Từ trên 50

người đến 100 người

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Phát triển dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Quảng Bình - 3

Với cách phân loại này thì ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới khoảng 95% tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa như trên là phù hợp với thực tế khách quan của nước ta, một nước với nguồn vốn có hạn nhưng nguồn lao động dồi dào. Việc xác định này nhằm đưa ra những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển, để đáp ứng được yêu cầu cấp bách của xã hội là đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của đại đa số nhân dân lao động và dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo.

1.1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa

Các DNNVV dù theo loại hình nào, hoạt động trong lĩnh vực nào thì nhìn chung cũng có những đặc điểm nổi bật như sau:

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, số lượng lao động ít. Đặc điểm này của DNNVV ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn lĩnh vực ngành nghề hoạt động kinh doanh, cơ cấu tổ chức, phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; năng động, dễ dàng chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh; tổ chức gọn nhẹ và quản lý dễ dàng.

+ Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có mặt ở hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Đa số các DNNVV ở nước ta hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Do đây là ngành có vòng quay vốn nhanh, không cần số vốn đầu tư lớn, không cần có lao động có trình độ cao, gia nhập thị trường và rút



khỏi thị trường dễ dàng. Các doanh nghiệp thương mại chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, có kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức mua lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nên tính cạnh tranh thường rất gay gắt.

+ Để thích nghi với quy mô nhỏ, doanh lợi thấp, các DNNVV thường tổ chức bộ máy quản lý đơn giản, không quá cồng kềnh. Nhiều DNNVV không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rò ràng, thậm chí một người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí, nhiệm vụ.

+ Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động của DNNVV nhìn chung chưa cao. Một số chủ doanh nghiệp kiến thức quản lý, trình độ chuyên môn thấp, khả năng xây dựng chiến lược phát triển cho doanh nghiệp trong trung hạn và dài hạn không cao. Đa số các DNNVV hiện nay được thành lập với các thành viên là người trong gia đình, họ hàng nên tính chuyên nghiệp trong quản lý và trong sản xuất kinh doanh là chưa cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

+ Nguồn tài chính hạn chế, việc tiếp cận vốn trên thị trường vốn của các DNNVV gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn của các DNNVV chủ yếu từ tài sản của chủ doanh nghiệp và các thành viên góp vốn, mà lượng vốn này thường nhỏ và phân tán dẫn đến vốn đầu tư cho doanh nghiệp bị hạn chế nên các DNNVV sẽ gặp khó khăn trong giai đoạn mới hình thành. Các tổ chức tín dụng (TCTD) thường e ngại khi họ có nhu cầu vay vốn vì họ chưa tạo lập được uy tín trong kinh doanh và tạo được niềm tin trong trả nợ.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường manh mún và lạc hậu. Do vậy, năng suất lao động, sản phẩm và chất lượng sản phẩm thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị hiện đại. Rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ được trang bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài.

+ Các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa coi trọng đúng mức việc thiết lập một hệ



thống sổ sách, báo cáo tài chính một cách rò ràng và minh bạch. Khả năng lập các phương án sản xuất kinh doanh còn yếu, chưa tính toán một cách đầy đủ doanh thu, chi phí, lợi nhuận và đặc biệt là rủi ro thị trường. Do vậy độ chính xác và minh bạch về tình hình tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua sổ sách kế toán là thấp.

Qua những đặc điểm trên của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho chúng ta thấy vì sao hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đều có chiến lược phát triển và hỗ trợ cho loại hình doanh nghiệp này. Và muốn phát triển được thì Chính phủ các nước cần đưa ra những chính sách, biện pháp hỗ trợ phù hợp, vì các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế

Hiện nay số lượng DNNVV chiếm trên 95% trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam cho thấy các DNNVV đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế.

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho

người lao động, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp.

Hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động góp phần ổn định trật tự xã hội là vấn đề nan giải và cấp thiết cho nhiều quốc gia. Tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan hành chính sự nghiệp có chiều hướng giảm. Trong hoàn cảnh này, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trở thành nơi giải quyết nhu cầu về việc làm cho số lao động được tinh giảm trong các doanh nghiệp và hệ thống hành chính Nhà nước. Các DNNVV còn là nơi tạo ra việc làm cho số lượng lớn những người mới tham gia vào lao động hàng năm.

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào quá trình tạo lập sự phát triển công bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ.

Thực tế là các doanh nghiệp lớn thường tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã lớn. Chính xu hướng đó đã gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội cả nước giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền với nhau. Sự phát triển của loại hình DNNVV là một giải pháp cho



việc tạo lập lại sự cân bằng về trình độ phát triển giữa các vùng miền và sự phát triển đồng đều giữa các lĩnh vực của nền kinh tế, đồng thời thu hút lao động trong xã hội. Việc nhiều DNNVV được thành lập ở nông thôn, vùng miền núi đã hạn chế sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa cung cấp ra thị trường khối lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các DNNVV tham gia hoạt động trong mọi ngành, mọi lĩnh vực sản xuất, cộng với số lượng doanh nghiệp lớn nên số lượng hàng hoá dịch vụ cung cấp ra thị trường là nhiều, có tính cạnh tranh cao nên rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, giá thành. Vì thế, đóng góp của loại hình doanh nghiệp này vào tổng sản phẩm quốc gia là đáng kể, từ đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.

+ Sự ra đời của DNNVV đã tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và gia tăng nguồn hàng xuất khẩu.

Quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam ngày càng sâu rộng, cộng với số lượng các DNNVV được thành lập trong các lĩnh vực ngành nghề ngày càng nhiều. Vì thế các DNNVV của Việt Nam phải đối mặt với sức cạnh tranh gay gắt hơn. Đây là động lực để các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới, cải tiến công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã đẹp hơn để đủ sức cạnh tranh hàng hoá với doanh nghiệp trong nước cũng như hàng hoá của doanh nghiệp nước ngoài đang vào thị trường Việt Nam ngày một nhiều. Từ đó góp phần thúc đẩy xuất khẩu, thu lượng ngoại tệ không nhỏ cho quốc gia.

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa còn góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư, đồng thời khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương.

Với quy mô hoạt động nhỏ và vừa thì các DNNVV là mô hình đầu tư phù hợp cho những chủ thể có nguồn vốn và trình độ hạn chế muốn tham gia kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các DNNVV có khả năng huy động vốn từ bạn bè, người thân. Đây là phương tiện hiệu quả trong việc huy động vốn từ các tầng lớp dân cư. Số lượng DNNVV đông và thường phân tán ở hầu khắp các địa phương,



chính vì thế sẽ tận dụng được lao động, nguyên nhiên liệu, phế liệu ở các địa phương. Từ đó nguồn lực của địa phương được khai thác một cách có hiệu quả hơn.

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là tiền đề tạo ra các doanh nghiệp lớn.

Với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các doanh nghiệp sẽ được mở rộng và nhiều doanh nghiệp trong số này dần dần trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế.

Việc xác định tầm quan trọng của DNNVV đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Có thể thấy rò, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNNVV ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn. Tình trạng phân biệt, đối xử so với các doanh nghiệp nhà nước được giảm nhiều. Đặc biệt, ở một số yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNNVV như việc tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ, đất đai, lao động tay nghề, thông tin thị trường đã được thông thoáng hơn rất nhiều so với trước đây. Vì vậy, việc tăng cường hoạt động cho vay đối với các DNNVV không chỉ có ý nghĩa là tăng dư nợ và lợi nhuận cho ngân hàng mà đối với nền kinh tế nó còn là thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh làm tăng trưởng sản phẩm quốc dân, qua đó đạt được nhiều các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước.

1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một tổ c+hức trung gian tài chính có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, ngân hàng thương mại hình thành trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi sản xuất phát triển thì nhu cầu trao đổi mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ, giữa các quốc gia tăng lên, để khắc phục sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực thì thì xuất hiện các thương gia làm nghề đổi tiền. Khi trao đổi hàng hoá phát triển quay trở lại kích



thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự phát triển đó, các nghiệp vụ được phát triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ… trên cơ sở đó thực hiện hoạt động tín dụng.

Do quá trình phát triển mạnh mẽ của kinh tế từ đó hình thành hệ thống các Ngân hàng đa dạng phát triển nhanh và các loại hình ngân hàng lần lượt ra đời do đòi hỏi của sự phát triển cần phải xã hội hóa nhằm tích tụ và tập trung tư vốn hình thành nên Ngân hàng cổ phần. NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy NHTM là gì. Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/2010: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan (cũng theo luật này thì tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán)”.

1.2.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Chức năng trung gian tín dụng

Ngân hàng thương mại một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, hay nói cách khác là một tổ chức đóng vai trò “cầu nối” giữa các đơn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn. Thông qua sự điều chuyển này. ngân hàng thương mại có vai trò quan trong trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, cải thiện mức sống dân cư, ổn định thu chi Chính phủ. Đồng thời chức năng này còn góp phần quan trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Từ đó cho thấy rằng, đây là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại.

1.2.2.2. Chức năng trung gian thanh toán

Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội đều được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí thực hiện là rất lớn, bao gồm: chi phí in, đúc, bảo quản, vận chuyển



tiền... Với sự ra đời của ngân hàng thương mại, phần lớn các khoản chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ của xã hội dần được thực hiện qua ngân hàng, với những hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện với công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Chính nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội ở ngân hàng nên việc lưu thông hàng hoá dịch vụ trở nên nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm hơn. Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


1.2.2.3. Chức năng tạo tiền

Xuất phát từ khả năng thay thế lượng tiền giấy bạc trong lưu thông bằng những phương tiện thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi... Chức năng này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định về giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm.

1.2.3. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường

Bất kỳ một quốc gia nào thì hoạt động ngân hàng cũng có tác dụng to lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng, được thể hiện như sau:

- Ngân hàng là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung ứng tiền vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh.

- Ngân hàng là trung gian trong quá trình thanh toán góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá nhanh chóng.

- Ngân hàng góp phần điều tiết và kiểm soát thị trường tiền tệ, thị trường vốn.

- Ngân hàng góp phần thu hút, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước và cung cấp các dịch vụ tài chính khác.



1.3. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.

1.3.1. Dịch vụ tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.

1.3.1.1. Khái niệm dịch vụ tín dụng ngân hàng.

Có thể hiểu dịch vụ tín dụng đối với DNNVV là những dịch vụ cung ứng những tiện ích cũng như tín dụng ngân hàng đối với đối tượng khách hàng là DNNVV. Hiện này lĩnh vực dịch vụ tín dụng được quy định nhưng không có định nghĩa và giải thích rò ràng. Tại khoản 1 và khoản 7 điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng có ghi: “Hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng được bao hàm cả 3 nội dung: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”.

Tín dụng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa 2 loại chủ thể: người có vốn dư thừa và người cần được bù đắp nhu cầu vốn tạm thời thiếu, trên cơ sở sự tin tưởng lẫn nhau và trên nguyên tắc có hoàn trả lại cả vốn và lãi.

Theo các tác giả cuốn giáo trình “Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng” (Học viện Ngân hàng), tín dụng được định nghĩa như sau: “ Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sa ng người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”. Hoặc theo các tác giả cuốn sách “Tiền tệ ngân hàng” (Đại học Ngân hàng TP.HCM), khái niệm tín dụng được nêu ra như sau: “Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ chủ thể sở hữu sang chủ thể sử dụng trên cơ sở phải có sự hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”.

1.3.1.2. Đặc điểm và rủi ro tín dụng đối với DNNVV.

Xuất phát từ đặc điểm của các DNNVV như qui mô vốn và tài sản nhỏ bé; sổ sách và báo cáo kế toán không rò ràng, minh bạch; sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất kinh doanh; trình độ tay nghề công nhân viên cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn ở mức thấp …. Do đó, quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với các ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, về quy mô tín dụng: rất thấp nếu tính bình quân trên một doanh

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí