Thách Thức Từ Khả Năng Cạnh Tranh Kém Của Các Dnv&n Trung Quốc


khốc liệt từ các nước đang phát triển khác có lợi thế chi phí lao động thấp. Ví dụ, năm 1996, mức lương trung bình mỗi giờ của công nhân dệt may ở Trung Quốc là 0.58 đôla, cao hơn mức 0.56 đôla của ấn Độ, 0.43 đôla ở Inđônêxia và 0.44 đôla ở Pakistan.

Trong các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn và công nghệ, chẳng hạn như chế tạo máy, luyện kim, hoá học, sản xuất phương tiện vận tải, thiết bị truyền thông, sản xuất giấy, sản xuất dụng cụ cũng như các ngành chế tạo sợi hoá học, có nhiều DNV&N cam kết cung cấp các dịch vụ liên quan cho các doanh nghiệp lớn hoặc sản xuất bán thành phẩm có nhu cầu không cao. Những ngành công nghiệp này thu hút rất nhiều nhân tài của Trung Quốc và có lợi thế về kỹ thuật và vốn so với các ngành khác nên chiếm một phần lớn trong tổng sản lượng công nghiệp của Trung Quốc. Nhưng vì Trung Quốc vẫn thiếu khả năng cạnh tranh về vốn và công nghệ nên sản phẩm của những ngành công nghiệp này không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các ngành này cũng là nguyên nhân gây nên thâm hụt thanh toán quốc tế của Trung Quốc. Rõ ràng, sau khi gia nhập WTO, DNV&N trong các lĩnh vực này thậm chí phải đối mặt với những thách thức lớn hơn các lĩnh vực khác. Các sản phẩm nhập khẩu có chất lượng cao và vừa trong những ngành này vào Trung Quốc càng nhiều thì ảnh hưởng đến các doanh nghiệp cùng ngành trong nước càng lớn. Nếu giá cả trên thị trường Trung Quốc cao hơn nhiều so với thị trường thế giới, nguyên vật liệu thô và các sản phẩm chất lượng cao phụ thuộc vào các nguồn lực tự nhiên, vốn và công nghệ sẽ là những mặt hàng bị tác động xấu bởi hàng nhập khẩu. Các sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, được chế tạo hoàn chỉnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu chúng không được đưa vào danh sách những ngành công nghiệp non trẻ cần được sự bảo trợ của nhà nước. Bên cạnh đó các ngành dịch vụ thu hút nhiều DNV&N cũng trong tình trạng rất lạc hậu và phát triển không cân bằng. Ví dụ, mặc dù


ngành du lịch và xây dựng được báo cáo là tăng trưởng nhanh, nhưng dịch vụ trong những ngành này chất lượng còn rất kém. Các dịch vụ chuyên nghiệp, cho thuê, tư vấn và các ngành công nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng vẫn còn ở trình độ thấp. Việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ sẽ khiến các DNV&N trong những ngành này rơi vào khó khăn rất lớn trong ngắn hạn.

Lĩnh vực tài chính cũng trong hoàn cảnh tương tự. Chống chọi lại với sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất của Trung Quốc đã phải thu hẹp phạm vi kinh doanh và điều chỉnh cơ cấu khách hàng. Các ngân hàng này đã đề ra khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp và dân cư ở các thành phố lớn và dần dần rút khỏi thị trường tài chính ở vùng nông thôn hoặc là tham gia với mức độ thấp hơn. Bên cạnh đó, nếu các tổ chức tín dụng vừa và nhỏ không có những bước phát triển và thay đổi tương ứng trong quá trình hội nhập, một loạt các DNV&N sẽ phải đối mặt với khó khăn chưa từng có vì nguồn vốn của các DNV&N Trung Quốc chủ yếu từ các tổ chức này.

Tóm lại, việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ mang đến rất nhiều thách thức cho các DNV&N trong ngắn hạn. Trước tiên, những thay đổi về thị trường sẽ khiến các DNV&N phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Các sản phẩm nước ngoài chất lượng cao hơn nhưng giá rẻ hơn và các đối thủ cạnh tranh mạnh hơn sẽ tràn vào Trung Quốc. Trung Quốc sẽ phải mất một vài phân đoạn thị trường trong các ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, do đó môi trường cạnh tranh trong những ngành này sẽ hẹp hơn nên sẽ khốc liệt hơn. Cạnh tranh về giá đối với các doanh nghiệp Trung Quốc vốn vẫn gắn với việc phá giá do đó sẽ phải đối mặt với các biện pháp chống bán phá giá từ các quốc gia khác, kết quả là các quy tắc cạnh tranh sẽ phải thay đổi và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ phải quen với điều đó. Thứ hai, hệ thống quản lý đối với các DNV&N sẽ phải chịu rất nhiều ảnh hưởng. Mặc dù


cải cách hệ thống kinh tế hơn 2 thập kỷ qua ở Trung Quốc đã gặt hái được một số thành quả, nhưng khoảng cách giữa thực tế và yêu cầu của một nền kinh tế thị trường vẫn còn rất lớn. Sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc sẽ rất khó để tiếp tục thực hiện các biện pháp bảo hộ nội địa. Nhiều DNV&N có cơ cấu sở hữu và sự phân chia trách nhiệm không rõ ràng, Chính phủ lại can thiệp quá nhiều vào việc quản lý doanh nghiệp, quản lý yếu kém, những điều này sẽ khiến các DNV&N khó để tồn tại sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Một số DNV&N có thể sẽ để mất những cán bộ và công nhân có tài năng trước chính sách thu hút nhân tài và môi trường năng động của các doanh nghiệp nước ngoài.

Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, một tỷ lệ lớn DNV&N phải đối mặt với sự sống còn. Một số DNV&N có quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ kém và hiểu biết hạn chế về thông tin thị trường sẽ rơi vào tình trạng phá sản mặc dù hiện tại các DNV&N vẫn đang được bảo hộ bởi hàng rào thuế nhập khẩu. DNV&N trong lĩnh vực công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao như sản xuất máy vi tính và các sản phẩm viễn thông cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì và mở rộng thị phần.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

2. Trong dài hạn


Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 6

Sau khi vượt qua giai đoạn chuyển đổi sau khi gia nhập WTO, các yếu tố thị trường tác động lên nền kinh tế Trung Quốc, hàng rào thuế quan và phi thuế quan, những khó khăn trong thâm nhập thị trường sẽ dần dần đi vào ổn định. Nhưng các yếu tố từ hệ thống KT - XH và các quy định sẽ trở thành những thách thức lớn đối với các DNV&N Trung Quốc. Khi Trung Quốc thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới, cũng như các quốc gia đang phát triển khác, những thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt không thể giải quyết trong một thời gian ngắn mà phải giải quyết trong dài hạn. Vì thế, đây mới thực sự là những khó khăn cần được quan tâm.


Trong dài hạn, những thách thức đối với DNV&N Trung Quốc chủ yếu là từ những hệ thống và nguyên tắc cơ bản, cụ thể là khả năng cạnh tranh kém của các DNV&N Trung Quốc, khả năng của chủ các DNV&N, các tổ chức hợp tác của DNV&N (các hiệp hội) và cơ cấu công nghiệp cũng như sự chuyển đổi cách thức quản lý của chính phủ.

2.1. Thách thức từ khả năng cạnh tranh kém của các DNV&N Trung Quốc


Hầu hết các DNV&N Trung Quốc được thành lập bởi những người nông dân sau thời kỳ mở cửa và cải cách, rất nhiều nhà quản lý cũng như công nhân là nông dân. Họ không qua bất kỳ một khoá đào tạo nghiệp vụ nào. Vì thế, trình độ công nhân viên thấp, công nghệ lạc hậu, kỹ năng quản lý kém. DNV&N đồng thời cũng thiếu vốn và trang thiết bị hiện đại. Những yếu tố này dẫn đến hiệu quả sản xuất kém, năng suất lao động thấp, sự quản lý thiếu minh bạch rõ ràng, mức tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng lớn, do đó chi phí sản xuất và giá thành sản xuất cao.

2.2. Hạn chế về khả năng của chủ các DNV&N


Hầu hết các khoản tiết kiệm của người dân Trung Quốc được gửi vào ngân hàng hoặc mua các tài sản khác và chỉ một tỷ lệ nhỏ được sử dụng vào mục đích đầu tư kinh doanh. Điều này cho thấy Trung Quốc thiếu những nhà đầu tư và những ông chủ doanh nghiệp đích thực. Mặc dù một số lượng lớn các DNV&N được thành lập ở Trung Quốc trong 20 năm qua nhưng đặc điểm nổi bật của các DNV&N này là người sáng lập phần lớn là những nông dân không có kiến thức chuyên môn, những người có tài năng về quản lý lại không lập doanh nghiệp riêng của họ mà làm cho những người khác để ăn lương. Các chương trình đào tạo cử nhân quản trị kinh doanh ở các trường đại học và cao đẳng không có khoá học nào cho các ông chủ DNV&N. Các trường này chỉ đào tạo những công nhân trí thức chứ không phải là những ông chủ. Trong khi đó, tại Mỹ, 1/4 số người có bằng cử nhân quản trị kinh doanh


lập doanh nghiệp của riêng mình. Từ điều này chúng ta có thể thấy rằng nếu những người có tài của một đất nước chỉ cố gắng để trở thành những “người làm thuê lương cao” hay “những công nhân trí thức” thay vì ông chủ thì xã hội sẽ mất đi một động lực cho việc tạo việc làm và đổi mới hệ thống doanh nghiệp.

2.3. Thách thức từ cơ cấu tổ chức DNV&N


Thách thức đầu tiên được chỉ ra là các quan hệ sở hữu thiếu rõ ràng trong nhiều DNV&N, nhất là các doanh nghiệp tập thể. Các mối quan hệ sở hữu thiếu minh bạch, đầu vào không được xác định cụ thể khiến cho việc bảo vệ quyền và tài sản tập thể thiếu hiệu quả. Sự mất mát tài sản tập thể đã khiến các cổ đông và những người công nhân của các DNV&N miễn cưỡng tiếp tục đầu tư. Thứ hai, tính chất sở hữu công cộng của các doanh nghiệp này không được chỉ rõ và địa vị pháp lý cũng không được cụ thể hoá. Về nguyên tắc, rất nhiều doanh nghiệp tập thể và doanh nghiệp nhà nước sẽ chỉ cung cấp các dịch vụ công và các hoạt động phi lợi nhuận, các doanh nghiệp này bị nghiêm cấm tiến hành các hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên như thế thì các doanh nghiệp này sẽ để mất sự cạnh tranh trên thị trường do sự quản lý thiếu năng động vì phải cân nhắc đến sự bảo đảm tài sản.

2.4. Thách thức từ tổ chức công nghiệp của DNV&N


Khái niệm tổ chức công nghiệp ở đây chỉ cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về mối liên hệ liên kết giữa các doanh nghiệp để tạo thành một thực thể có mối quan hệ chặt chẽ và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế.

Một mặt quy mô tổ chức của các DNV&N không có tính kinh tế. Sau khi cải cách và mở cửa, cơ chế lợi nhuận chi phối đã được đẩy mạnh nhưng việc cải cách vẫn chưa hoàn thành và sự phân chia mang tính chất bộ phận, địa


phương hay nói cách khác là tính chất cục bộ vẫn chiếm ưu thế. Điều này đã ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp có quy mô kinh tế lớn vì các doanh nghiệp có quy mô nhỏ vẫn giữ vai trò thống trị. Số lượng các xí nghiệp dệt may, sản xuất giấy sản xuất xi măng, sản xuất thép, chế biến dầu ăn và các nhà máy nhiệt điện có quy mô nhỏ tăng vọt ở các vùng nông thôn đã gây nên những vấn đề về xây dựng. Trong khi đó, sự cạnh tranh khốc liệt đã khiến cho lợi nhuận của các DNV&N này xuống thấp và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường.

Mặt khác, mức độ hợp tác giữa các DNV&N vẫn còn rất thấp. Hệ thống quản lý với sự can thiệp quá mức của Chính phủ trong việc quyết định thị trường cho các DNV&N giới hạn trong một khu vực nhỏ hẹp và hướng tới sản xuất những sản phẩm hoàn chỉnh đã khiến các DNV&N khó khăn để tổ chức sản xuất những sản phẩm trung gian và cung cấp các sản phẩm bổ sung cho các doanh nghiệp lớn. Những hạn chế này đã cản trở sự tham gia sâu hơn vào phân công lao động quốc tế. Cùng lúc đó, khoá cửa thị trường đã trở thành con đường thuận tiện nhất để bảo vệ lợi ích địa phương và hình thành nên tình huống “các doanh nghiệp có triển vọng khó để đạt được thị phần còn doanh nghiệp yếu kém lại không thể bị loại bỏ khỏi cuộc cạnh tranh”.

2.5. Khó khăn trong việc chuyển đổi cách thức quản lý của Chính phủ.


Nền kinh tế thị trường thường được gọi là một nền kinh tế công bằng, tất cả các hoạt động kinh doanh đều được tiến hành dựa theo các quy định, quy tắc và sự điều chỉnh cung cầu trên thị trường. Thông qua quản lý bằng luật pháp, các tranh chấp phát sinh trong giao dịch mua bán hàng hoá có thể được giải quyết một cách công bằng và khách quan bằng các quy định đã được đặt ra. Những hoạt động gian lận và không trung thực trong thương mại cũng sẽ bị trừng phạt thông qua hệ thống các quy định luật pháp. Rõ ràng nền kinh tế thị trường yêu cầu phải có sự ngăn chặn nghiêm khắc đối với những hành


động gian lận trong sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì thế, chính phủ giữ vai trò rất quan trọng trong việc quản lý và giám sát để duy trì trật tự thị trường. Bởi vậy, việc quản lý theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật thực sự là những thách thức đối với chính quyền các cấp của Trung Quốc vốn quen với việc quản lý bằng mệnh lệnh.

Thêm vào đó, DNV&N cần phải nhận được sự hỗ trợ từ nhà nước hơn nữa. Các DNV&N Trung Quốc vẫn chưa có được sự bảo vệ cần thiết về mặt luật pháp thêm vào đó là hàng loạt những gánh nặng xã hội. Bên cạnh thủ tục phê chuẩn việc thành lập doanh nghiệp và các thủ tục đăng ký quá phức tạp, tiêu tốn thời gian, các DNV&N thậm chí buộc phải chi trả rất nhiều khoản chi phí và phí bất hợp lý. Trong khi đó chính phủ của các quốc gia phát triển lại nỗ lực hết sức để giúp đỡ các DNV&N. Nếu chính phủ Trung Quốc không chuyển đổi cách thức quản lý của mình sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các DNV&N Trung Quốc trong cạnh tranh.

Thực tế, ở một số vùng ở Trung Quốc, chính quyền địa phương không quan tâm đến việc giúp đỡ các DNV&N phát triển mà chỉ tập trung vào việc thành lập thêm càng nhiều DNV&N càng tốt. Vì thế, nhiều DNV&N phụ thuộc vào sự bảo vệ của chính quyền để tồn tại một cách không hiệu quả. Sau khi gia nhập WTO, nếu chính quyền Trung Quốc tiếp tục thiên vị và bảo vệ các DNV&N địa phương trong các phiên toà hoặc các tranh chấp và các xung đột về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động ngoại thương thì các thành viên khác của WTO có thể sẽ sử dụng những sự việc này như là những bằng chứng về việc Trung Quốc vi phạm các quy định của WTO. Những điều này có thể huỷ hoại hình ảnh của Trung Quốc. Vậy chính phủ Trung Quốc đã làm gì giúp các DNV&N vượt qua những thách thức khi tham gia hội nhập, ngày càng phát triển và thực hiện được những mục tiêu chiến lược do Chính phủ đề ra?

III. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNV&N CỦA TRUNG QUỐC


Để được gia nhập vào WTO năm 2001, Trung Quốc đã phải trải qua rất nhiều vòng đàm phán trong 14 năm. Trong suốt thời gian ấy, Trung Quốc đã không ngừng thực hiện công cuộc cải cách nhằm xây dựng khung pháp lý cho một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mang màu sắc Trung Quốc thoả mãn những quy định của WTO nhằm đưa nền kinh tế Trung Quốc bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. DNV&N là một bộ phận trong nền kinh tế Trung Quốc, chính sách phát triển nền kinh tế nói chung có ảnh hưởng rất nhiều đến DNV&N nên phần chính sách của Trung Quốc sẽ được chia thành 2 phần nhỏ: các chính sách điều chỉnh kinh tế và các chính sách giành riêng cho DNV&N.‌

1. Các chính sách kinh tế nói chung


DNV&N của Trung Quốc gồm 3 thành phần chính: Các doanh nghiệp tập thể, Các doanh nghiệp nhà nước, Các doanh nghiệp phi công hữu thoả mãn các quy định của chính phủ về tiêu chuẩn DNV&N. Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu các chính sách của chính phủ đối với 3 thành phần kinh tế này và có liên quan đến các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.

1.1. Chính sách đối với kinh tế công hữu


Khu vực kinh tế tập thể đã góp phần rất lớn trong việc thu hút rộng rãi các nguồn lực phân tán ngoài xã hội, phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, tăng cường tích luỹ cho Nhà nước và tăng nguồn thu thuế quốc gia, phát huy vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy sức sản xuất và củng cố vị trí chủ thể của chế độ công hữu. Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của kinh tế tập thể ở thành thị và nông thôn đã khẳng định rằng nó có tính thích ứng mạnh mẽ và sức sống dồi dào. Đại hội XV của ĐCS Trung Quốc nhấn mạnh: “Kinh tế tập thể là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế công hữu”, “Phải phát triển kinh tế tập thể ở thành thị và nông thôn với nhiều hình thức sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc củng cố vai trò chủ thể và phát huy vai trò chủ đạo của

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí