Bài Học Kinh Nghiệm Từ Chính Sách Phát Triển Dnv&n Trung Quốc


công nghiệp dịch vụ và các ngành đòi hỏi sử dụng nhiều lao động mà Trung Quốc có lợi thế so sánh. Trước hết Trung Quốc cần tạo ra một môi trường chính sách hoàn thiện hơn cho các cá nhân, cá thể có thể yên tâm thành lập và điều hành doanh nghiệp. Trung Quốc đã nỗ lực hết sức để đơn giản hoá thủ tục đăng ký, miễn thuế kinh doanh và thuế thu nhập và các chi phí quản lý trong vòng 3 năm cho các doanh nghiệp vừa mới thành lập. Theo Điều 23, Luật “Thúc đẩy phát triển DNV&N” có chỉ rõ chính phủ sẽ hỗ trợ và khuyến khích việc thành lập và phát triển các DNV&N thông qua các chính sách về thuế. Luật này cũng khuyến khích các DNV&N trao đổi kinh nghiệm về thu hút đầu tư nước ngoài, đổi mới công nghệ và quản lý, thiết lập các công ty liên doanh, khuyến khích các cá nhân và tổ chức đầu tư quyền sở hữu tài sản công nghiệp và các công nghệ chưa được cấp bằng sáng chế vào việc thành lập DNV&N.

2.7. Chính sách phát triển thị trường


Chính phủ đã thành lập Quỹ Phát triển thị trường quốc tế cho DNV&N vào năm 2001. Nguồn quỹ này đã hỗ trợ hàng tỷ NDT cho hơn 40 000 DNV&N để thực hiện các dự án dịch vụ trên thị trường quốc tế. Trong một chừng mực nhất định, nguồn hỗ trợ này đã giảm bớt sự yếu kém của DNV&N Trung Quốc trong việc phát triển thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, do tăng nhu cầu phát triển thị trường trong các hoạt động kinh doanh, các hoạt động triển lãm công nghiệp của Trung Quốc đã tăng một cách nhanh chóng mà thành phần tham gia chủ yếu là các DNV&N. Cho đến năm 2004, đã có hơn 2 000 cuộc triển lãm hàng năm ở Trung Quốc được tổ chức bởi các tổ chức có liên quan hoặc các nhà tổ chức triển lãm, các cuộc triển lãm này đã tạo cơ hội và điều kiện cho việc bán hàng và ký hợp đồng kinh doanh của các DNV&N. Đồng thời, có khoảng 510 cuộc triển lãm quốc tế được tổ chức ở nước ngoài mỗi năm với diện tích khu vực triển lãm lên tới 140 000 km2. Năm 2004, khoảng 200 tổ chức có khả năng tổ chức các cuộc triển lãm ở


nước ngoài và cùng với các dịch vụ hỗ trợ DNV&N, các tổ chức này có nhiệm vụ trợ giúp DNV&N phát triển thị trường quốc tế. 15

Theo Chương V, “Luật Thúc đẩy phát triển DNV&N”: Chính phủ Trung Quốc khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn và các DNV&N liên quan đến việc cung cấp nguyên vật liệu, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, phát triển công nghệ và cải tiến kỹ thuật trên cơ sở thị trường phân bổ các nguồn lực nhằm tạo động lực để thúc đẩy sự phát triển của DNV&N. Chính phủ sẽ có các chính sách ưu tiên cho các sản phẩm và dịch vụ của DNV&N. Đồng thời Chính phủ và các cơ quan chức năng liên quan sẽ hướng dẫn và giúp đỡ DNV&N tăng cường xuất khẩu sản phẩm, trao đổi và hợp tác về kinh tế và công nghệ với nước ngoài. Ngoài ra, các tổ chức tài chính liên quan của chính phủ sẽ hỗ trợ các DNV&N tham gia vào thị trường quốc tế bằng cách cấp các khoản vay cho hoạt động xuất nhập khẩu và các khoản tín dụng xuất khẩu cho các DNV&N.

Trải qua nhiều năm thực hiện, Chính phủ Trung Quốc đã hình thành nên một khung chính sách cho DNV&N mang đặc trưng Trung Quốc để khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của các DNV&N và đồng thời vẫn học hỏi kinh nghiệm tiến bộ của nước ngoài. Điêù này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các DNV&N.

IV. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA DNV&N TRUNG QUỐC TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

Từ sau khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc không ngừng tăng trưởng với tốc độ chóng mặt, trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới. Theo các số liệu thống kê chính thức, tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc trung bình 9.5%/1 năm trong hơn 2 thập kỷ qua. Tổng thu nhập quốc dân cứ 8 năm thì tăng gấp 2


15 www.apecsmesa.org


lần16. Trung Quốc là trường hợp tăng trưởng kinh tế duy trì với tốc độ nhanh và ổn định nhất trong các nền kinh tế chuyển đổi của thế giới trong vòng 50 năm qua.

Đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc không thể không kể đến các DNV&N. Nhờ tạo dựng môi trường pháp lý ngày càng bình đẳng theo thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cùng với những chính sách hỗ trợ tích cực và toàn diện của chính phủ, các DNV&N cũng đang phát triển nhanh chóng, đóng vai trò ngày càng lớn trong sự phát triển kinh tế- xã hội Trung Quốc và đang dần khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế.

Sau 5 năm gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, các DNV&N của Trung Quốc không những bảo vệ được thị trường nội địa mà còn chiếm lĩnh được thị trường thế giới không chỉ trong những ngành có lợi thế so sánh mà còn ngay cả trong những ngành không có lợi thế như công nghệ thông tin, đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu và tổng sản phẩm quốc dân, giải quyết được vấn đề sức ép về lao động dư thừa ở khu vực nông thôn và lực lượng lao động thất nghiệp do cải cách doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Trung Quốc là nhà xuất khẩu lớn thứ ba trên thế giới, chiếm 6% tổng giá trị xuất khẩu toàn thế giới năm 2004, và năm 2005 là 8%. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như hàng điện tử, thiết bị điện, dụng cụ gia đình, quần áo, dệt may và giày dép. Thị phần xuất khẩu

trong các khu vực đó đạt đến 30, 40, 50% thậm chí cao hơn. Đây cũng là những ngành có số lượng DNV&N Trung Quốc tham gia đông nhất.17

Các DNV&N đã thực hiện được vai trò chiến lược của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong việc giải quyết việc làm và ổn định xã hội. Việc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Trung Quốc sữ phải thực hiện quá trình CNH-


16 www1.oecd.org/publications/observertháng 9 năm 2005

17 Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia http://www.ncseif.gov.vn


HĐH đất nước và sự chuyển hoá lao động nông nghiệp đã trở thành một vấn đề nổi cộm. Sự dư thừa lao động ở khu vực nông thôn là một nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng bất ổn xã hội. Khi những người nông dân trở thành những vật thế thân cho quá trình công nghiệp hoá, họ sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình này. Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá Trung Quốc, 400-500 triệu việc làm đã được tạo ra trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, vì thế việc chuyển hoá lao động sẽ là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn trong cả ngắn hạn và dài hạn. Trong hoàn cảnh đó, các DNV&N đã trở thành nơi thu hút hàng trăm triệu lao động nông nghiệp. Hiện nay, các DNV&N đang tạo ra khoảng 75% việc làm ở các vùng nông thôn Trung Quốc, đóng góp rất lớn cho công cuộc xoá đói giảm nghèo của Trung Quốc.

Năm 2002, một cuộc điều tra được tiến hành bởi Trung tâm thông tin Chính phủ và Hệ thống điều tra các chủ doanh nghiệp Trung Quốc đã cho thấy rằng cho đến cuối năm 2001, đất nước này đã có 29.2 triệu DNV&N, thuê 174 triệu nhân công và đóng góp hơn 50% GDP. Các DNV&N cũng chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp 43.2% tổng số thuế thu được của Trung Quốc, tạo ra 75% tổng số việc làm ở các vùng nông thôn, giải quyết sức ép về lao động dư thừa của Trung Quốc. Cũng trong năm này, riêng khu vực kinh tế phi công hữu đã đóng góp 1/3 vào GDP và chiếm 45% tổng số vốn đầu tư của Trung Quốc. DNV&N đã đi vào chuyên môn hoá cao, tập trung vào các ngành chế biến nông sản thực phẩm, may mặc, giày dép...18.

Cuối năm 2002, Trung Quốc có tất cả 2.34 triệu doanh nghiệp tư nhân và

23.77 triệu hộ kinh doanh cá thể tạo ra 81.5 triệu việc làm tương đương với 1/3 tổng số việc làm ở vùng nông thôn19.

Trong năm 2003, các DNV&N Trung Quốc đã đóng góp 1/2 GDP, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu và 43% tổng số thuế thu được của nước này.


18 www.china.org.cn

19 http://english.peopledaily.gov.cn


Các DNV&N cũng giải quyết 75% việc làm ở các thành thị, giảm sức ép về thị trường lao động ở các vùng nông thôn.

Cuối tháng 6 năm 2004. Trung Quốc đã có hơn 3.2 tỷ DNV&N. Theo thống kê mới nhất của Hiệp hội các doanh nghiệp Trung Quốc thì có 23 triệu DNV&N trong khu vực tư nhân tham gia vào sản xuất công nghiệp và các hoạt động thương mại, chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp của Trung Quốc. Các sản phẩm và dịch vụ của các DNV&N chiếm 55.6% GDP và 62.3% kim ngạch xuất khẩu.20

Nhiều sản phẩm của Trung Quốc đã đáp ứng được nhu cầu của thế giới về chất lượng và đã chiếm lĩnh thị trường nhiều khu vực trên toàn thế giới như hàng may mặc, hàng dệt may, thực phẩm và thậm chí cả các mặt hàng công nghệ cao như phần mềm máy tính, đồ điện tử, đồ điện gia dụng.



20 www.china.org.cn


CHƯƠNG III‌‌

BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN DNV&N VIỆT NAM

I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNV&N TRUNG QUỐC

1. Một số đặc điểm về sự phát triển của DNV&N Việt Nam


Sự phát triển của các DNV&N đang đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là từ sau khi luật Doanh nghiệp sửa đổi được triển khai năm 1999. Tính chung giai đoạn 1991 - 1999, số DNV&N đăng ký kinh doanh mới chỉ có 47 844 doanh nghiệp vơi số vốn 141 994 tỷ đồng. Sau gần 6 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp số lượng doanh nghiệp đã tăng nhanh chóng, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 6/2005 đã có trên 125000 doanh nghiệp thành lập với tổng số vốn đăng ký là 243 387 tỷ đồng21, chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc, trong đó hầu hết là DNV&N sở hữu tư nhân. Các DNV&N đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động22. Số lượng DNV&N không ngừng tăng lên theo các năm (bảng 6, 7). Mật độ doanh nghiệp cũng tăng lên từ 1178 dân/1 doanh nghiệp (năm 2003) lên 930 dân/1 doanh nghiệp (năm 2004)23



21 Vietnam Net ngày 31/8/2005

22 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo Phát triển DNV&N giai đoạn 2006-2010

23 Tổng quan tình hình phát triển DNV&N của 10 tỉnh thành phố và một số phát hiện ban đầu – Lê Văn Sự- Phó ban nghiên cứu Cải cách và Phát triển doanh nghiệp – Viện nghiên cứu kinh tế Trung Ương -7/2006


Bảng 6 : Số lượng DNV&N qua các năm căn cứ vào chỉ tiêu vốn dưới 10 tỷ đồng



Loại hình

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2004

Tổng số DN

DNV& N

Tổng số DN

DNV& N

Tổng

số DN

DNV

&N

Tổng số DN

DNV

&N

Tổng số DN

DNV

&N

42288

36305

51680

44670

62908

54216

72012

61977

91755

79420

DN Nhà nước

5759

2496

5355

2040

5364

1763

4845

1346

4596

1091

Trung ương

2067

472

1997

357

2052

309

1898

221

1967

204

Địa phương

3692

2024

3358

1683

3312

1454

2947

1125

2629

887

DN ngoài Nhà

nước

35004

33433

44314

41967

55236

51770

64526

59888

84003

77374

Tập thể

3237

3102

3646

3513

4104

3941

4150

3944

5349

5094

Tư nhân

20548

20399

22777

22559

24794

24472

25653

25248

29980

29396

Cty hợp danh

4

4

5

5

24

21

18

14

21

17

Cty TNHH

10458

9413

16291

14749

23485

21248

30164

27200

40918

36789

Cty cổ phần có

vốn Nhà nước

305

175

470

233

557

240

669

290

815

296

Cty cổ phần không có vốn

Nhà nước


452


340


1125


908


2272


1848


3872


3192


6920


5782

DN có vốn

đầu tư nước ngoài


1525


376


2011


663


2308


638


2641


743


3156


955

DN 100% vốn

nước ngoài

854

244

1294

487

1561

515

1869

586

2335

763

DN liên doanh

với nước ngoài

671

132

717

176

747

168

772

157

821

192

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 10

Nguồn: Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê các năm

2000, 2001, 2002, 2003, 2004


Chọn chỉ tiêu về vốn làm tiêu chí xác định sự phát triển của DNV&N Việt Nam trong thời gian qua, ta có thể có một số nhận xét sau:

1) Về cơ cấu các loại hình công ty trong số các DNV&N


Các DNV&N Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp ngoài nhà nước (Tập thể, Tư nhân, Công ty hợp danh, Công ty TNHH, Công ty cổ phần có vốn nhà nước, Công ty cổ phần không có vốn của nhà nước), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Doanh nghiệp liên doanh, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Trong số đó, các Công ty TNHH chiếm tỷ lệ lớn nhất, năm 2000 là 25,9%, năm 2001 là 33.12%, năm 2002 là 39.19%, năm 2003 là 43.89% và năm 2004 là 46.32%. Sở dĩ loại hình công ty này tăng nhanh như vậy là vì ưu điểm về giới hạn trách nhiệm của chủ doanh nghiệp. Tiếp theo đó là doanh nghiệp tư nhân. Tỷ lệ DNV&N thuộc khu vực nhà nước không ngừng giảm xuống.

2) Về tốc độ gia tăng số lượng DNV&N


Số lượng DNV&N của nước ta không ngừng gia tăng qua các năm và chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam (Bảng 7)

Bảng 7: Tốc độ gia tăng số lượng và tỷ lệ so với tổng số Doanh nghiệp cả nước qua các năm

Đơn vị %


Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tốc độ gia tăng

100

123.04

121.37

114.34

128.14

Tỷ lệ so với tổng số DN

85.85

86.44

86.18

86.06

86.55

Từ năm 2000 đến năm 2004, số lượng DNV&N của Việt Nam đều tăng hàng năm và tỷ lệ trong tổng số doanh nghiệp của cả nước cũng tăng dù tốc độ tăng không đồng đều (Bảng 7) . Năm 2004 có tốc độ tăng cao nhất. Tốc độ gia tăng đó chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng cao của các DNV&N thuộc khu vực ngoài nhà nước, khu vực này năm 2001 tăng 25.52%, năm 2002 tăng 23.36%, năm 2003 tăng 55.68%, năm 2004 tăng 29.2%, trong khi đó DNV&N thuộc khu vực nhà nước giảm một cách đều đặn về số lượng tuyệt

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí