lực từ thị trường thì nguồn lực trong dân là vô cùng lớn và cần huy động cho sự phát triển của đất nước.
1.2. Mục tiêu phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển các DNVVN sẽ nhằm đạt các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo thế cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với định hướng rõ ràng.
Thứ ba, thu hút mọi tiềm năng về vốn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho một số lớn lao động và đáp ứng vào việc thực thi chiến lược CNH - HĐH, giảm tới mức tối đa chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các vùng trong cả nước.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
Thứ năm, đề cao tính linh hoạt và năng động của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra mối liên kết, hỗ trợ cho các công ty lớn, tăng cường khả năng thích ứng với sự thay đổi của các thị trường trong và ngoài nước.
1.3. Định hướng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1.Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt ở một số lĩnh vực có lựa chọn
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Của Các Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Việt Nam
- Tận Dụng Các Nguồn Vốn Cho Đầu Tư, Sử Dụng Tối Ưu Nguồn Lực Địa Phương
- Quan Điểm, Mục Tiêu Và Định Hướng Phát Triển Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 11
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Trong bối cảnh Nhà nước còn nhiều khó khăn, chưa thể tập trung giải quyết, tháo gỡ mọi vướng mắc của DNVVN được, vì vậy việc hỗ trợ cần được lựa chọn cho các khu vực ưu tiên, đặc biệt là ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành lựa chọn.
Cụ thể là các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, đồng thời lại phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của
doanh nghiệp lớn (mạng lưới phân phối hoặc gia công bán thành phẩm); các ngành sản xuất các sản phẩm thuộc các làng nghề truyền thống.
Nghiên cứu thực trạng của các DNVVN trong gần một thập kỷ qua cho thấy, các DNVVN chiếm phần lớn trong công nghiệp, đóng góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, cũng như trong xuất khẩu, do vậy một định hướng quan trọng thời gian tới là tiếp tục ưu tiên phát triển các DNVVN ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trên đà đó triển khai sang hoạt động dịch vụ.
1.3.2. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng nòng cốt của chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp
Định hướng phát triển DNVVN ở nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng không những trong phát triển kinh tế đơn thuần mà còn phát triển chính trị xã hội.
Kinh nghiệm của nhiều nước đông dân ở Châu Á cho thấy chiến lược phát triển tại chỗ đi từ nông thôn và nông nghiệp là sự lựa chọn khôn ngoan bởi vì nó sẽ giải quyết được mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, việc đó sẽ giúp sử dụng được nguồn lao động dư thừa - một trong hai yếu tố quan trọng cho tăng trưởng (vốn bằng tiền và lao động).
Thứ hai, thu nhập của người dân ở nông thôn sẽ tăng thêm làm cho sức mua chung của xã hội tăng lên, từ đó rút ngắn khoảng chênh lệch về trình độ phát triển giữa nông thôn và thành thị.
Thứ ba, giảm nhu cầu di dân từ nông thôn về thành thị, góp phần làm ổn định xã hội.
Thứ tư, thúc đẩy thị trường lưu thông, phân phối ở nông thôn phát triển.
Và cuối cùng, tại các địa phương, nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu phong phú phục vụ cho việc phát triển ngành công nghiệp tiêu dùng như chế biến lương thực, thực phẩm.
1.3.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được khuyến khích, ưu tiên phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không thể có lợi thế tham gia
Về nguyên tắc thông thường, sản xuất lớn, sản xuất với quy mô hàng loạt bao giờ cũng cho ta hiệu quả cao hơn. Đó là xét đơn thuần về mặt hạch toán kế toán, còn xét về hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế thì chưa hoàn toàn đúng.
Thị trường cho người tiêu dùng hết sức đa dạng và phong phú và có khi lại rất khó tính. Có những sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu cho một số lượng người vô cùng lớn, song cũng có những sản phẩm chỉ đáp ứng cho một số người, một số hộ gia đình nào đó. Về phương diện linh hoạt để có thể đáp ứng với thị trường mọi thành phần - người tiêu thụ thì đó chính là DNVVN. Tuy nhiên trên thực tế các DNVVN đang bị o ép, đang bị các DNNN lấn sân, độc quyền trong một số lĩnh vực. Nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì các doanh nghiệp lớn thường độc quyền chiếm lĩnh mọi thị trường. Vì vậy, đã đến lúc phải có định hướng rõ ràng về ngành sản xuất nào, sản phẩm nào, thị trường nào và tỷ lệ bao nhiêu dành cho DNVVN.
1.3.4. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn
Cụ thể DNVVN vừa phải tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra cho doanh nghiệp lớn. Còn về phía mình các doanh nghiệp lớn phải đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, đồng thời trong các hợp đồng lớn nên phân vai, giao thầu một số phần việc cho các DNVVN.
1.3.5. Định hướng về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa ra các chính sách hỗ trợ DNVVN là một yêu cầu cấp thiết đối với Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một số chính sách lớn cần
được khẩn trương đi vào đời sống của các DNVVN như: chính sách khuyến khích đầu tư và hỗ trợ tín dụng từ phía Nhà nước; thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư và bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN. Hỗ trợ cho việc tăng khả năng cạnh tranh của DNVVN trên thị trường; thực hiện đơn đặt hàng của Nhà nước: hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích về thầu phụ, hỗ trợ về mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
Có thể nói, chưa lúc nào các DNVVN lại cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nhiều như hiện nay. Nhiều chuyên đề và nhiều cuộc hội thảo được tổ chức, thực hiện với mong muốn tìm ra lối thoát cho các DNVVN, mà thực ra họ thật không “nhỏ” và không “vừa” nếu xét về góc độ đóng góp cho nền kinh tế. Nhưng cho đến nay, mọi vấn đề, mọi thiện chí hay sự ủng hộ nhiệt tình từ phía cấp Bộ, Ngành chưa được triển khai đồng bộ, triệt để, có chính sách mới chỉ dừng lại trong phạm vi hội nghị và trên các dự thảo mà thôi. Vậy thực trạng của các chính sách hỗ trợ các DNVVN có những vướng mắc gì cần tháo gỡ? Có hai vướng mắc chính là:
Thứ nhất, mặc dù chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được cụ thể hóa thành các chính sách, giải pháp cụ thể; song chủ trương phát triển DNVVN như là một phương hướng chiến lược trong việc phát triển kinh tế nhiều thành phần theo chiều sâu thì cho đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa thành các chương trình cụ thể. Trong nhận thức của một số cơ quan quản lý Nhà nước vẫn chưa thật sự công bằng, thậm chí bất bình đẳng đối với loại hình kinh tế này. Ít người có được nhận thức sâu sắc rằng, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của sự sáng tạo, năng động và trí tuệ, những doanh nhân nào mang lại nhiều lợi nhuận, đóng góp nhiều cho xã hội thì đều phải được tôn vinh như nhau. Và vì vậy, trên thực tế khu vực tư doanh của các DNVVN vẫn bị phân biệt đối xử và ít được biết đến, ít được đánh giá đúng mức trong guồng quay của cơ chế thị trường.
Thứ hai, về tổ chức quản lý của Nhà nước đối với các DNVVN: cho đến nay vẫn chưa có một cơ quan quản lý Nhà nước nào được giao chức năng theo dõi, tổng hợp nghiên cứu, xây dựng chính sách và điều phối hoạt động hỗ trợ DNVVN.
Do vậy trong quá trình hình thành và phát triển của các DNVVN nhìn từ góc độ tổ chức quản lý của Nhà nước còn có một số tồn tại cần được khắc phục như:
Thứ nhất, hệ thống chính sách pháp luật đang trong quá trình hình thành, chưa đồng bộ, còn quá nhiều sơ hở, chưa thật sự có tác dụng tích cực trong việc quản lý có hiệu quả các hoạt động của các DNVVN.
Thứ hai, chính sách thuế đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn bất hợp lý chưa theo kịp với nhu cầu phát triển của các DNVVN nên tác dụng hỗ trợ còn hạn chế.
Thứ ba, việc phân bố phát triển DNVVN không đồng đều ở các khu vực, đa số tập trung ở các tỉnh, thành phố nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và thị trường tiếp thu rộng. Theo số liệu đưa ra trong Báo cáo thường niên DNVVN Việt Nam thì miền Bắc có 18,64% doanh nghiệp; miền Trung có 18,36 % doanh nghiệp, và miền Nam là 63%.
Thứ tư, cơ cấu DNVVN chưa hợp lý, phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại tập trung chủ yếu vào các ngành kinh doanh có lợi nhuận cao và hoàn vốn nhanh như kinh doanh khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch. Trong sản xuất, tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến (chiếm tới 35,2% tổng số doanh nghiệp), chưa chú trọng đến ngành nông nghiệp.
Thứ năm, hiện nay có rất nhiều tổ chức hỗ trợ DNVVN như: trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN của Cục Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam; các câu lạc bộ hỗ trợ DNVVN. Nhưng hiệu quả hoạt động của các tổ chức này còn
chưa cao, còn phân tán, nhất là chưa tập trung được về một đầu mối, thống nhất quản lý về mặt Nhà nước.
Thứ sáu, khó khăn lớn hiện nay của các DNVVN là vấn đề vốn, máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu; trình độ tay nghề của công nhân thấp; năng lực quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu.
Và cuối cùng là sự thiếu thông tin kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, liên tục phải cạnh tranh gay gắt trước sự tấn công của hàng ngoại, thiếu thị trường, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước.
Tóm lại, trước một thực trạng như đã phân tích ở trên, Nhà nước cần phải sớm đưa ra một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ để hỗ trợ các DNVVN.
2. Các giải pháp khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những tác động không nhỏ đối với các DNVVN Việt Nam và hiện tại khi mà những tác động của nó đã được kìm chế thì những khó khăn trước mắt đối với các DNVVN Việt Nam vẫn rõ ràng hơn bao giờ hết. Khả năng tiếp cận nguồn vốn để phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn rất hạn chế, ngoài ra việc duy trì chi phí đầu vào ở mức không quá cao cũng như việc tìm đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ cũng là những vấn đề cần phải được giải quyết. Trong thời điểm này, để giúp các DNVVN vượt qua khó khăn hiện tại cũng như có những tiền đề vững chắc hơn để phát triển trong tương lai thì cần phải có những giải pháp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng như giải pháp của bản thân các doanh nghiệp.
2.1. Các giải pháp từ phía Nhà nước
2.1.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn
2.1.1.1. Tiếp tục thực hiện gói kích cầu để hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Gói kích cầu là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đang được Chính phủ thực hiện và đã đạt được những hiệu quả ban đầu. Nguồn kích cầu được lấy từ Quỹ dự trữ, một phần sẽ chuyển vốn chưa thực hiện của năm 2008 sang (43.000 tỷ đồng) và từ các nguồn huy động khác như phát hành trái phiếu đầu tư công trình giao thông (20.000 tỷ đồng). Tổng cộng giá trị toàn bộ của gói kích cầu xấp xỉ 100.000 tỷ đồng (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2009).
Chính phủ cũng đã quyết định dùng gói kích cầu để hộ trợ lãi suất năm 2009 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chính. Mức bù lãi suất đang được xem xét, song theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể sẽ vào khoảng 4%, tức là nếu lãi suất vay ngân hàng của các DNVVN là 10% thì người đi vay chỉ phải trả 6% lãi. Gói kích cầu sẽ có tác dụng giúp các DNVVN giải quyết khó khăn, tạo việc làm cho người lao động, tăng tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên để gói kích cầu có thể phát huy hết tác dụng của nó thì cần phải có các giải pháp đồng bộ đi kèm khác mà điển hình là giải pháp giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp.
Gói kích cầu của Chính phủ là một giải pháp đang được triển khai và bước đầu đã cho thấy những hiệu quả của nó. Nó đã có tác động đáng kể đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp đối phó hiệu quả hơn trước khó khăn cũng như đem lại động lực phát triển cho nền kinh tế, tránh khỏi nguy cơ về một sự tụt dốc trong tương lai. Bởi vậy gói kích cầu này cần được tiếp tục thực hiện và có thể mở rộng quy mô hơn nữa.
2.1.1.2. Cắt giảm lãi suất cơ bản
Theo những số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể thấy được mức độ lạm phát trong những tháng đầu năm 2009 đã được kiềm chế một cách đáng kể và là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế. Mức tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng trong bốn tháng đầu năm 2009 lần lượt là 0,32%; 1,15%; -0,17% và 0,35%. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 4/2009 so với thời điểm cuối năm 2008 chỉ tăng 1,68%. Nỗi lo âu của hầu hết các quốc
gia bây giờ không còn là đối phó với lạm phát thế nào mà là nỗi lo về nguy cơ của sự suy thoái kinh tế toàn cầu theo đúng chu kỳ của nền kinh tế mà các lý thuyết kinh tế học đã chỉ ra.
Một trong những giải pháp trước mắt mà NHNN có thể thực hiện đó là giảm lãi suất cơ bản ở một mức thích hợp để khuyến khích sản xuất và đầu tư, tạo động lực phát triển cho nền kinh tế, tránh khỏi nguy cơ suy thoái trước mắt. Lãi suất cơ bản giảm xuống sẽ kéo theo sự giảm xuống của lãi suất cho vay của các NHTM. Điều đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các DNVVN nói riêng có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, vượt qua những khó khăn trước mắt cũng như phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
2.1.1.3. Giải pháp về thuế
Thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ điều tiết phân phối thu nhập, mà còn có vai trò trong việc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, kích thích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của từng ngành, từng khu vực. Kinh nghiệm cho thấy, thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách, ngược lại thuế quá cao hay thuế không hợp lý thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế, kết quả là Nhà nước thất thu, doanh nghiệp chịu thiệt, còn người được lợi là cán bộ thu thuế mất phẩm chất.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp đặc biệt là các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong việc khắc phục những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như phải chuẩn bị đối phó với những nguy cơ suy thoái kinh tế trước mắt thì những hỗ trợ kịp thời về chính sách thu thuế đối với các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Để hỗ trợ cho các DNVVN đặc biệt trong khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh đó là nộp thuế, khóa luận xin được đưa ra một số đề xuất sau: