Tính đơn giản: hệ thống thuế đơn giản nhằm giảm bớt chi phí hành chính. Mặt khác hệ thống thuế có đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra kiểm soát của nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng thuận lợi. Nếu một chính sách thuế phức tạp với quá nhiều mức thuế suất phân biệt và các điều khoản miễn giảm thuế sẽ gây ra tình trạng không có chuẩn mực rõ ràng trong cách hiểu và vận hành, làm cho người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành, còn cơ quan thuế gặp khó khăn trong quản lí thu nộp. Vì lẽ đó phát sinh ra sự tùy tiện, tạo kẽ hở trốn thuế và tránh thuế, đồng thời tăng chi phí hành chính thuế.
Tính linh hoạt: Hệ thống thuế phải có tính linh hoạt, được thể hiện thông qua khả năng thích ứng một cách dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Trong thực tế, chính sách tài khóa (thuế) có độ trễ thường lớn hơn so với chính sách tiền tệ. Điều đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách can thiệp ở mức độ, thời điểm và đối tượng thích hợp thì mới đảm bảo được tính linh hoạt và hiệu lực của chính sách thuế. Yêu cầu xây dựng một hệ thống thuế chính là phải kết hợp những tiêu chí đó một cách tối ưu nhằm thực hiện mục tiêu của hệ thống một cách tốt nhất trong hoàn cảnh kinh tế-xã hội cụ thể phù hợp với từng quốc gia và từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Tính ổn định: Hệ thống thuế cần phải có độ nổi và tính ổn định để giúp cho nhà nước có thể đáp ứng tốt các nhu cầu tài chính gia tăng khi GDP của quốc gia tăng lên. Độ nổi của thuế là tỷ số giữa phần trăm về số thu thuế với thay đổi % trong GDP. Nếu gọi %ΔT là phần trăm về số thu thuế của năm nay so với năm trước và gọi %ΔY là phần trăm về thay đổi tăng trưởng GDP năm nay so với năm trước, thì độ nổi của thuế là tỷ số %ΔT/%ΔY.
2.1.1.2 Khái niệm thuế thu nhập
Nhà kinh tế học người Mỹ Paul.A.Samuelson cho rằng: “ Thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm)”. Từ đó, Heilmuth (1955) cho rằng thuế thu nhập là thuế đánh trên thu nhập ròng của hoạt động kinh doanh, nghĩa là thu nhập sau khi đã trừ các chi phí tạo ra thu nhập đó và các khoản được phép giảm trừ. Do đó, thuế thu nhập xuất hiện rất sớm trong lịch sử thuế khoá, ở Anh năm 1798, thủ tướng đương quyền là William Pitt the Younger đánh thuế vào thu nhập để tăng ngân sách chi tiêu cho vũ khí và khí tài nhằm chống lại cuộc chiến của Napoleon. Sau đó nhiều nước đã áp dụng loại thuế này như ở Pháp năm 1842; ở Nhật năm 1887; ở Mỹ năm 1913; ở Trung Quốc năm 1936, tại Việt Nam từ năm
1954 đã áp dụng thuế lợi tức… Thuế thu nhập là loại thuế điều tiết trực tiếp thu nhập thực tế của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm. Thu nhập doanh nghiệp thực chất sau khi để lại một phần nếu tiếp tục phân chia cho các cổ đông lại là thu nhập cá nhân. Vì vậy, các loại thuế thu nhập khác nhau thật chất là bổ sung cho nhau trong quá trình vận dụng, nhằm điều tiết thu nhập nằm trong một hệ thống và thời điểm nhất định. Như vậy, thuế thu nhập là một phần quan trọng trong cơ cấu thu thuế của nhiều quốc gia và thường được thu theo phương thức trực thu, tác động trực tiếp đến thu nhập của đối tượng nộp thuế.
Thuế TNDN đánh vào thu nhập chịu thuế của các tổ chức sản xuất kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp), vì vậy mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, so với các loại thuế gián thu, thuế TNDN mang tính nhạy cảm và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của tổ chức kinh tế. Thuế TNDN có tính ổn định (mặc dù tương đối) nhằm tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư. Khi xây dựng luật thuế TNDN, hầu hết các nước đều chú trọng đến mức độ điều tiết thu nhập nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế nên thuế TNDN thường được ổn định theo thời gian, đặc biệt là thuế suất. Sự ổn định này cũng giúp các cơ sở kinh doanh có thể xây dựng chiến lược phát triển trong một giai đoạn nhất định.
2.1.1.3 Cơ sở thuế thu nhập
Trong thực tiễn thế giới, cơ sở tính thuế thu nhập của một quốc gia được xác định là các thể nhân/pháp nhân và số thu nhập/lợi nhuận mà một quốc gia được phép đánh thuế. Diamond & Mirlees (1971) cho rằng lợi nhuận thuần túy là cách tốt nhất để huy động nguồn thu hơn là so với đánh thuế vào các yếu tố sản xuất. Cụ thể, cơ sở tính thuế là một bộ phận của đối tượng chịu thuế được xác định làm căn cứ tính thuế. Đối tượng chịu thuế là thu nhập hoặc tài sản, do đó, cơ sở tính thuế chính là thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế được xác định trong thời gian nhất định do pháp luật của từng nước quy định nhưng thông thường phải đảm bảo yêu cầu sau: Đảm bảo công bằng trong việc đánh thuế, đảm bảo tính khả thi của việc đánh thuế, và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Xác định cơ sở thuế có vai trò rất quan trọng , vì còn phản ánh và hiện thực hóa các quan điểm của mỗi Nhà nước về sử dụng thuế nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội (Alm & ctg, 1991). Cơ sở thuế được xác định dựa trên các yếu tố sau: Xác định
Có thể bạn quan tâm!
- Thuế và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển - 1
- Thuế và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển - 2
- Tổng Quan Lý Thuyết Về Thuế, Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Và Các Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đề Tài
- Yếu Tố Điều Kiện “Đẩy – Kéo” Của Fdi
- Khung Lý Thuyết Về Thuế Và Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Hiện Tượng Dịch Chuyển Lợi Nhuận Fdi Và Xói Mòn Cơ Sở Thuế (Beps)
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
phạm vi của đối tượng chịu thuế, miễn hoặc giảm thuế, các khoản giảm trừ, khấu trừ… khi xác định cơ sở thuế.
Stotsky (1995) cho rằng việc xác định phạm vi của đối tượng chịu thuế thể hiện sự lựa chọn của mỗi Nhà nước về việc có điều tiết hay không điều tiết một sắc thuế cụ thể với những đối tượng đánh thuế. Đối với thuế thu nhập DN thì cơ sở thuế rộng hay hẹp phụ thuộc vào việc lựa chọn loại thu nhập chịu thuế. Do đó, ở hầu hết các nước, thu nhập chịu thuế được xác định trong các trường hợp cụ thể sau: (i)Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường dưới hình thức tiền tệ. (ii) Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường dưới hình thức tiền tệ trừ đi các khoản chi phí khách quan gắn liền với quá trình tạo ra thu nhập (cả chi phí sản xuất và chi phí khách quan khác). Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà các khoản chi phí miễn trừ này được quy định khác nhau. (iii) Thu nhập của các tổ chức, cá nhân phát sinh từ những giao dịch trên thị trường, nhưng được miễn trừ thêm một khoản thu nhập để khuyến khích những hoạt động theo định hướng của Nhà nước. Thu nhập chịu thuế được định nghĩa là bằng tổng thu nhập trừ đi các khoản giảm thuế. Các hệ thống thuế thu nhập khác nhau ở cách thức mà chúng giảm từ tổng thu nhập đến thu nhập chịu thuế. Giảm thuế có thể có các hình thức như điều chỉnh, khấu trừ, miễn, giảm thuế, trợ cấp, và tín dụng.
• Miễn, giảm thuế là một trong những hình thức ưu đãi thuế cụ thể, theo đó một phần thu nhập, giá trị tài sản hoặc giá trị hàng hóa không phải đưa vào tính thuế. Mặc dù đối tượng miễn thuế càng rộng thì cơ sở thuế càng hẹp nhưng để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định, các quốc gia vẫn áp dụng miễn thuế cho những đối tượng nhất định trong một số sắc thuế.
• Xác định các khoản giảm trừ cũng là một phần tất yếu của cơ sở thuế. Chẳng hạn như, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thì việc quy định các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến phần thu nhập chịu thuế. Theo thông lệ quốc tế, có hai loại giảm trừ là: (i) Giảm trừ có tính chất kinh tế; (ii) Giảm trừ có tính chất xã hội. Giảm trừ kinh tế là giảm trừ các chi phí tạo ra thu nhập (chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập đối với TNDN). Giảm trừ có tính chất xã hội là giảm trừ cho các khoản đóng góp cho các hoạt động từ thiện, nhân đạo, vì mục đích cộng đồng…
• Khấu trừ thuế là một khoản giảm thu nhập có thể bị đánh thuế và thường là kết quả của các khoản chi phí, đặc biệt là những khoản được sử dụng để tạo ra thu nhập, thu
nhập bổ sung. Các khoản khấu trừ thuế là một hình thức ưu đãi thuế, cùng với các khoản miễn giảm và tín dụng. Sự khác biệt giữa các khoản khấu trừ, miễn trừ và tín dụng là các khoản khấu trừ và miễn trừ đều làm giảm thu nhập chịu thuế, trong khi các khoản tín dụng làm giảm thuế.
Freebairn (2002) cho rằng cơ sở thuế có tác động quan trọng đến việc đảm bảo số thu cho NSNN bởi vì việc xác định cơ sở thuế gắn với phạm vi đối tượng chịu thuế và không chịu thuế, chính sách miễn giảm thuế, trợ cấp, và tín dụng thuế. Mặt khác cơ sở thuế giúp hệ thống thuế đáp ứng tốt hơn tiêu chí công bằng theo chiều ngang. Chẳng hạn như, miễn thuế đối với phần thu nhập từ hoạt động kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật có mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các cơ sở kinh doanh sử dụng lao động là người khuyết tật; miễn thuế cho phần thu nhập từ sản phẩm trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm có mục tiêu thúc đẩy cơ sở kinh doanh đầu tư cho nghiên cứu phát triển…
Trên nguyên tắc, hệ thống thuế thu nhập xác định trách nhiệm nộp thuế gồm các thành phần: sự lựa chọn đơn vị nộp thuế (đối tượng nộp thuế); các nguồn thu nhập chịu thuế (đối tượng chịu thuế); các ưu đãi về thuế, chẳng hạn như trợ cấp và tín dụng; và mức thuế suất. Các hệ thống thuế có thể kết hợp các những nhân tố này theo nhiều cách khác nhau để đạt được những mục tiêu cụ thể. Do vậy, việc lựa chọn cơ sở thuế thu nhập, cùng với những đặc tính quan trọng khác này của thuế thu nhập, có vai trò quan quan trọng đối với vấn đề bình đẳng, hiệu quả, và quản lý thuế (Bittker, 1967).
2.1.1.4 Thuế suất thuế thu nhập
Phần lớn lý thuyết hiện hành và chính sách thực tế từ các chính phủ, cho thấy mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước và thường được biểu hiện dưới hình thức thuế suất. Thuế suất cao hay thấp, được đánh vào tổng thu nhập hay đánh vào từng khoản thu nhập khác nhau của các chủ thể thường phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong phân phối thu nhập của từng nước trong những thời kỳ nhất định. Đối với thuế thu nhập, thuế suất cho biết mục đích, ý nghĩa tác động của chính sách thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt quan trọng giữa các loại thuế suất thực sự áp dụng cho nhà đầu tư và các doanh nghiệp, bởi vì ngoài thuế suất luật định còn có các loại thuế suất đo lường gánh nặng chịu thuế thực tế phải trả, như: thuế suất hiệu quả, thuế suất biên…
Theo các nhà nghiên cứu của tổ chức Americans For Fair Taxation (Mỹ) thuế suất luật định thường là khía cạnh dễ thấy nhất của hệ thống thuế, có thể đóng vai trò thông qua một số "dấu hiệu báo hiệu" trong thực thi chính sách thuế, bởi vì thuế suất luật định là mức thu ấn định trên cơ sở thuế bằng những phương pháp tính toán thích hợp. Các chính phủ xem thuế suất luật định là linh hồn của một sắc thuế, phản ánh mức độ điều tiết trên một cơ sở thuế bởi vì đây là thuế suất được quy định trong biểu thuế hợp pháp của chính phủ các nước. Trong mối quan hệ với thuế suất hiệu quả, thuế suất luật định rất dễ dàng nhận thấy và nhạy cảm hơn đối với các nhà đầu tư.
Thuế suất hiệu quả, là tỷ lệ giữa các khoản thuế thu được và cơ sở thuế tính toán được. Devereux & ctg (2008) cho rằng thuế suất hiệu quả phản ánh chính xác gánh nặng thuế thực tế bởi vì nó giải thích rằng cơ sở thuế có những trường hợp miễn trừ có thể xảy ra, nên làm giảm thu nhập tính thuế. Vì vậy, nếu các quốc gia có nhiều chính sách miễn, giảm thuế (dẫn đến cơ sở thuế thấp) thì thu suất hiệu quả cũng thấp hơn thuế suất luật định. So với thuế suất luật định, thuế suất hiệu quả phản ánh chính xác các ưu đãi thuế và là tiêu chí tốt hơn để đánh giá tác động của việc đánh thuế đối với các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp (Devereux & Griffith, 2003).
Ngoài ra, thuế suất cận biên cũng là một tiêu chí thuế suất được thiết kế để thu hút các động lực đối với việc sử dụng vốn mới (Fullerton, 1984). Theo thuế suất cận biên, người nộp thuế thường được phân vào nhóm các khung thuế hoặc phạm vi thuế. Khung thuế hay phạm vi thuế này xác định tỉ lệ thuế hay mức thuế suất áp dụng cho thu nhập chịu thuế của người khai thuế. Khi thu nhập tăng lên, phần thu nhập kiếm được sẽ bị đánh thuế ở mức cao hơn so với phần thu nhập đầu tiên kiếm được. Theo Devereux & ctg (2002), các quyết định về đầu tư của các công ty chịu ảnh hưởng của thuế suất theo luật định hoặc thuể suất hiệu quả, trong khi quyết định tăng vốn hiện có ở một quốc gia sẽ bị ảnh hưởng bởi thuế suất cận biên. Ngoài ra, việc lựa chọn đơn vị chịu thuế cũng có những ngụ ý quan trọng cho vấn đề hiệu quả bởi vì nó ảnh hưởng đến thuế suất biên của đơn vị chịu thuế và vì vậy có ảnh hưởng lên các quyết định làm việc, tiết kiệm, và đầu tư. Tầm quan trọng của những ảnh hưởng hiệu quả này phụ thuộc vào mức độ mà hệ thống thuế làm thay đổi các động cơ lợi ích mà các doanh nghiệp nhận được và sự phản ứng trong hành vi của họ đối với những thay đổi của thuế suất và các đặc tính khác của hệ thống thuế. Bằng chứng từ cả các nước công nghiệp hóa và các nước
đang phát triển cho thấy là những thay đổi trong thuế suất cũng như những đặc tính khác của hệ thống thuế làm thay đổi các quyết định đầu tư (Devereux & Griffith, 1999).
Từ cơ sở lý thuyết về thuế thu nhập, và các lý thuyết của FDI, có thể thấy rằng Thuế TNDN là công cụ tài chính quan trọng của nhà nước sẽ tác động tích cực đến môi trường đầu tư, tạo thêm tiềm lực tài chính để doanh nghiệp đầu tư vốn cho hoạt động SXKD, kể cả với doanh nghiệp FDI. Mức thuế suất thuế TNDN được áp dụng trong từng thời kỳ và được điều chỉnh ngày càng giảm đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp FDI có thể xây dựng chiến lược phát triển ổn định, vững chắc, góp phần tạo ra nhiều thu nhập cho nền kinh tế. Ngoài ra, thông qua việc xác định phạm vi thu thuế và không thu thuế, nhà nước thể hiện sự ưu đãi của mình đối với một số đối tượng hoặc thể hiện sự khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển của một lĩnh vực ở một vùng nào đó, trong đó đặc biệt ưu đãi để thu hút FDI. Các chính sách ưu đãi của nhà nước thông qua thuế TNDN nhằm thu hút FDI như: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với những ngành nhề, địa bàn được khuyến khích đầu tư; quy định về miễn giảm cho doanh nghiệp mới thành lập, hay cho phép doanh nghiệp trích một phần thu nhập trước thuế để đầu tư vào quỹ phát triển khoa học công nghệ… đã góp phần định hướng cho doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề, địa bàn được khuyến khích phát triển, từ đó tác động đến việc phân bổ các nguồn lực kinh tế nói chung, đồng thời góp phần cơ cấu lại nền kinh tế theo ngành và vùng, lãnh thổ.
Do đó, để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của luận án về mối quan hệ giữa thuế và FDI, sau đây tác giả đề cập chủ yếu đến các vấn đề của thuế thu nhập doanh nghiệp trong luận án.
2.1.2 Khung khái niệm về FDI
2.1.2.1 Khái niệm FDI
Theo Ngân hàng Thế Giới (1960), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng đầu tư vốn chủ sở hữu đầu tư trực tiếp trong nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại và nguồn vốn khác. Đầu tư trực tiếp là một loại đầu tư xuyên biên giới có liên quan đến một chủ thể trong một nền kinh tế có mức độ kiểm soát hay ảnh hưởng đáng kể đến quản lý của một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác. Ví dụ, đầu tư ròng (thuần) vào một quốc gia để nhà đầu tư có được quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít nhất 10% cổ phần thường) trong một doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác (đối với chủ đầu tư).
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (1975), Đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác. Lợi ích lâu dài thể hiện ở chỗ sự tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư với doanh nghiệp được đầu tư. Nhà đầu tư có được ảnh hưởng quan trọng và hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc thực hiện những giao dịch từ đầu tư và tất cả những giao dịch vốn tiếp theo giữa hai thực thể và các doanh nghiệp được liên kết một cách chặt chẽ. Như vậy, FDI là đầu tư vốn nước ngoài có gắn liền với việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh đối với dự án, doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó và có thời hạn lâu dài.
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (1977), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đầu tư vốn được thực hiện ở các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi nhà đầu tư nước ngoài mở rộng một mối quan hệ lâu dài với một doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư và có cổ phần trong doanh nghiệp đủ để duy trì một mức ảnh hưởng quan trọng trong việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (1979), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài).
Như vậy, các khái niệm trên đều có nhận định chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế, là việc nhà đầu tư chuyển tiền và các nguồn lực cần thiết khác (chuyển hóa thành vốn kinh doanh) đến các quốc gia khác nhằm mục đích lợi nhuận. Trong đó, khái niệm của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) được sử dụng rộng rãi và được kế thừa đưa vào Luật đầu tư nước ngoài tại nhiều quốc gia.
2.1.2.2 Các lý thuyết về FDI
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô giải thích về FDI nổi bật gồm có:
Lý thuyết lợi thế so sánh
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772-1823) cho rằng mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào một số ngành hoặc một số lĩnh vực có lợi thế so sánh so với quốc gia khác thì các quốc gia đều có lợi. Lợi thế so sánh có được khi các quốc gia chuyên môn hóa, tập trung sản xuất và trao đổi những mặt hàng có lợi nhuận lớn nhất hoặc mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất thì các quốc gia đều có lợi hơn khi sản xuất mọi mặt hàng. Các quốc gia có thể có lợi thế tuyệt đối cao hơn hoặc thấp hơn so với nước khác nhưng đều có lợi thế so sánh nhất định, quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng mình có lợi thế so sánh. Từ lý thuyết về lợi thế so sánh, các quốc gia có thể căn cứ vào lợi thế của quốc gia để xây dựng quy hoạch phát triển ngành, từ đó xây dựng chiến lược thu hút FDI. Ngược lại, các công ty đa quốc gia cũng xây dựng chiến lược toàn cầu của công ty mình, phân bổ các bộ phận sản xuất ở các quốc gia khác nhau để tận dụng được lợi thế so sánh của từng quốc gia để tập đoàn có lợi nhuận cao nhất. Hay có thể nói, lý thuyết lợi thế so sánh cho thấy ảnh hưởng của môi trường đầu tư đến cơ cấu FDI thu hút.
Lý thuyết chênh lệch lợi nhuận cận biên
Lý thuyết chênh lệch lợi nhuận cận biên của MacDougall (1960) cho rằng FDI chảy từ nước có lợi nhuận cận biên thấp đến nước có lợi nhuận cận biên cao. MacDougall (1960) đã đề xuất một mô hình lý thuyết, phát triển từ những lý thuyết chuẩn của Hescher Ohlin - Samuaelson về sự vận động vốn. Ông cho rằng FDI chảy từ nước có lợi nhuận cận biên thấp đến nước có lợi nhuận cận biên cao. Mac Dougal-Kempt đưa ra lập luận lợi nhuận cận biên của vốn giảm dần khi lượng vốn tăng lên. Lý thuyết này dựa trên giả định thị trường hoàn hảo, không có rủi ro, nên lợi nhuận là biến số duy nhất của quyết định đầu tư. Do đó, một quốc gia có vốn dồi dào thì có mức lợi nhuận cận biên về vốn thấp hơn so với quốc gia khan hiếm vốn. Chênh lệch lợi nhuận cận biên sẽ tạo ra dòng chảy của vốn từ quốc gia có lợi nhuận cận biên thấp sang quốc gia có lợi nhuận cận biên cao, làm cho nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có chiến lược thu hút ĐTNN theo ngành và vùng khác nhau, mỗi quốc gia có lợi thế khác nhau nên có thể vừa thu hút FDI, lại vừa đầu tư ra nước ngoài. Lý thuyết chênh lệch lợi nhuận cận biên chưa giải thích được việc nhiều quốc gia vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài, vừa thu hút FDI. Với góc độ nhà đầu tư, để tối đa hóa lợi nhuận thì nhiều nhà đầu tư vẫn đầu tư sang nước khác để tránh các rào cản thương mại dù lợi