FDI phát huy được nhiều mặt tích cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội và BVMT ở vùng KTTĐ đảm bảo cho vùng phát triển vượt trội, dẫn dắt tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả vùng, cũng như các vùng kinh tế khác trong cả nước. Đó là những dự án FDI gắn liền với những đối tác đầu tư đến từ các nước phát triển; những dự án đầu tư có công nghệ cao, công nghệ hiện đại, ít gây ô nhiễm môi trường; những dự án đầu tư vào lĩnh vực thâm dụng nhiều vốn, sử dụng ít lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Năm là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PT BV vùng KTTĐ không chỉ dừng lại ở việc xem xét và đánh giá ở giai đoạn đầu của quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài, tức là giai đoạn cấp phép, mà còn xem xét đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI. Một dự án FDI khi thẩm định có thể được đánh giá cao, nhưng khi đưa vào triển khai hoạt động lại không phát huy được những mặt tích cực, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội và BVMT ở vùng KTTĐ thì hoạt động FDI đó không đảm bảo yêu cầu theo hướng PTBV.
Sáu là, đầu tư trực tiếp nư ớc ngoài theo hướng PTB V vùng KTTĐ có tác động qua lại, hỗ trợ nhau giữa nhà ĐTNN và vùng KTTĐ. Điều này được thể hiện qua mối quan hệ giữa sự phát triển bền vững nội tại của các doanh nghiệp FDI với sự phát triển bền vững của vùng KTTĐ. Về cơ bản, sự phát triển bền vững nội tại của các doanh nghiệp FDI có tác động thuận chiều đến mục tiêu PTBV của vùng KTTĐ, nhưng cũng có thể mâu thuẫn và tác động xấu đến PTBV vùng KTTĐ. Sự phát triển của vùng KTTĐ có bền vững, môi trường đầu tư của vùng KTTĐ có thuận lợi và có khả năng tạo ra lợi ích cho các nhà ĐTNN thì mới thu hút các nhà ĐTNN hoạt động và làm ăn lâu dài tại vùng KTTĐ. Ngược lại, bản thân các doanh nghiệp FDI có đạt được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định; chấp hành tốt các qui định về BVMT của nước tiếp nh ận đầu tư nói chung và vùng KTTĐ nói riêng thì mới có những đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững chung của cả nước và của vùng KTTĐ.
2.1.3. Yêu cầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm
2.1.3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm phải dựa trên 3 trụ cột của sự phát triển, đó là: PTBV về kinh tế, PTBV về xã hội và PTBV về môi trường
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với ba trụ cột của PTBV: PTBV về kinh tế, PTBV về xã hội và PTBV về môi trường. Trong đó, mối quan hệ giữa FDI với PTBV về kinh tế giữ vai trò hạt nhân, bởi vì đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng tới PTBV về kinh tế sẽ tạo điều kiện vật chất để PTBV về xã hội, giữ gìn và
BVMT ở vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, nếu FDI đảm bảo được sự PTBV về kinh tế thì các nhà ĐTNN, Nhà nước và xã hội đều được hưởng lợi về kinh tế. Điều này tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút và sử dụng FDI ngày càng nhiều và hiệu quả hơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn với PTBV về xã hội sẽ góp phần phát triển con người, cải thiện điều kiện sống về cả vật chất và tinh thần cho người lao động, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều này góp phần quan trọng vào tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp FDI và làm tăng thu ngân sách Nhà nước, thúc đẩy phát triển về kinh tế. Từ đó, vùng KTTĐ có điều kiện để đầu tư vào các công trình phúc lợi xã hội, từng bước góp phần XĐGN, đảm bảo mục tiêu PTBV về xã hội của vùng KTTĐ.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Công Trình Nghiên Cứu Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Với Thương Mại Quốc Tế
- Tình Hình Nghiên Cứu Về Đầu T Ư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Và Phát Triển Bền Vững Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ
- Khái Niệm, Đặc Điểm Và Yêu Cầu Đối Với Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
- Nội Dung Và Tiêu Chí Đánh Giá Đầu T Ư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Tri Ển Bền Vững V Ề Xã Hội Vùng Kinh T Ế Trọng Điểm
- Kinh Nghiệm Của Một Số Quốc Gia Châu Á Về Đầu Tư Trực Tiếp N Ước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Và Bài Học Đối
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Đối Với Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ
Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.
Đầu tư trực tiếp gắn với PTBV về môi trường sẽ làm cho tài nguyên thiên nhiên và môi trường được bảo vệ, đảm bảo duy trì nguồn lực và môi trường sống trong lành cho phát triển ở thế hệ sau. Một môi trường không ô nhiễm và có nguồn tài nguyên thiên nhiên được bảo vệ, giữ gìn sẽ tác động tích cực ngược trở lại đối phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Như vậy, FDI tác động tới ba trụ cột của sự PTBV sẽ tạo ra một vùng động lực ổn định, đồng thuận và phát triển; một vùng động lực tăng trưởng kinh tế xa nh, môi trường trong lành, góp phần thúc đẩy không chỉ bản thân các vùng KTTĐ mà còn tác động lan tỏa và thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển theo hướng bền vững. Vùng KTTĐ được đầu tư phát triển theo hướng bền vững sẽ là “cú huých” để cả đất nước cùng phát triển bền vững. Điều này được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa FDI với PTBV về kinh tế, xã hội và môi trường vùng KTTĐ
FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ
PTBV về kinh tế vùng KTTĐ
PTBV về xã hội
vùng KTTĐ
PTBV về môi trường vùng KTTĐ
PTBV về KT-XH-
MT của nền kinh tế
Yêu cầu này đã và đang đặt ra nhiệm vụ cho các nước đang phát triển khi thu hút FDI vào vùng KTTĐ nói riêng và cả đất nước nói chung phải xây dựng hệ thống tiêu chí chuẩn mực đối với FDI theo hướng PTBV về kinh tế, xã hội và môi trường.
2.1.3.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm phải có tác động lan tỏa tới các vùng kinh tế khác
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ không chỉ thúc đẩy bản thân vùng KTTĐ phát triển bền vững mà còn đóng vai trò động lực, đầu tàu lôi cuốn và có tác động lan tỏa, tích cực tới các vùng, tiểu vùng kinh tế khác theo hướng PTBV. Tác động lan tỏa đó được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Một là, vùng KTTĐ có tiềm năng kinh tế lớn hơn các vùng khác và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn nên có khả năng thu hút lao động từ các vùng ki nh tế khác, mà trước hết là các vùng lân cận, giúp các vùng đó giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
Hai là, vùng KTTĐ có kết cấu hạ tầng phát triển khá đồng bộ, là đầu mối giao
thông quan trọng đến các vùng trong cả nước, nên có khả năng tạo điều kiện thuận lợi cho các vùng khác phát triển công nghiệp hỗ trợ, các ngành tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp hàng hóa và là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thuộc vùng KTTĐ. Đây là sự tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển giữa vùng KTTĐ với các vùng khác.
Ba là, vùng KTTĐ có tốc độ tăng GDP, thu nhập bình quân đầu người cao hơn so
với các vùng kinh tế khác và so với mức bình quân của cả nước, nên vùng có đóng góp nhiều cho Ngân sách nhà nước. Từ đó, Nhà nước có điều kiện đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn hơn để đảm bảo công bằng trong các chính sách xã hội.
Bốn là, vùng KTTĐ có năng lực sản xuất hàng xuất khẩu, có điều kiện tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế hơn so với các vùng khác, nên có khả năng hỗ trợ cho các vùng lân cận trong việc sản xuất hàng xuất khẩu hoặc làm đại lý xuất nhập khẩu hàng hóa cho họ.
Những tác động lan tỏa đó không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế
- xã hội và BVMT của các vùng kinh tế khác trong cả nước, mà còn có tác động tích cực đến sự phát triển bền vững của vùng KTTĐ.
2.1.3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ phải phát huy được tiềm năng, lợi thế của bản thân vùng KTTĐ và phù hợp với định hướng p hát triển các vùng KTTĐ nói riêng, toàn bộ nền kinh tế nói chung
Mỗi vùng nói chung và mỗi vùng KTTĐ nói riêng đều có những tiềm năng, lợi thế khác nhau. Do đó, mỗi vùng KTTĐ lại có định hướng, mục tiêu phát triển khác nhau tùy thuộc vào những lợi thế và tiềm năng ấy.
Ngoài ra, như chúng ta đã biết, tất cả mọi nguồn lực phát triển đều có hạn và đều được coi là khan hiếm, cần phải được sử dụng một cách tiết kiệm, phù hợp và có hiệu quả. Việc thu hút FDI phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng KTTĐ, hướng dòng vốn FDI vào những ngành, lĩnh vực mũi nhọn mà vùng KTTĐ có khả năng phát triển mạnh, nhằm tạo ra động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội và BVMT của vùng là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Điều này không những sẽ tránh được sự lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, mà còn đánh thức các tiềm năng đang bị “ngủ vùi” do không có khả năng và điều kiện khai thác ở vùng KTTĐ.
Yêu cầu này đặt ra đối với các vùng KTTĐ là cần phải tiến hành phân tích, đánh giá đầy đủ và đúng những ti ềm năng, lợi thế của vùng, từ đó, xây dựng chiến lược thu hút FDI hướng vào việc lựa chọn những đối tác ĐTNN có năng lực về tài chính, có tiềm lực khoa học công nghệ hiện đại, có phương thức quản lý tiên tiến, nhằm góp phần tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho vùng KTTĐ.
2.1.3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phải đảm bảo sự hài hòa về lợi ích theo hướng cùng có lợi giữa nhà đầu tư nước ngoài và vùng kinh tế trọng điểm
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư có liên quan đến hai chủ thể, đó là: nước tiếp nhận FDI và nhà ĐTNN. Mục đích của hai chủ thể trong hoạt động đầu tư này là không giống nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Với nhà ĐTNN, mục đích đầu tư của họ có nhiều, song mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, họ không quan tâm đến các vấn đề liên quan đến xã hội và bảo vệ môi trường của nước tiếp nhận đầu tư. Trong khi đó, nước tiếp nhận FDI lại có mục tiêu kinh tế, xã hội khá rõ ràng, cụ thể và suy cho cùng, mục tiêu cơ bản cuối cùng trong thu hút FDI của mọi quốc gia là nhằm phát triển chính quốc gia đó . Chính điều này đã làm xuất hiện mâu thuẫn trong mục tiêu của hoạt động đầu tư của hai chủ thể. Bởi vậy, để hoạt động FDI đảm bảo tính bền vững thì nước tiếp nhận đầu tư cần phải có định hướng thu hút FDI theo hướng PTBV và cần phải quản lý tốt hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động nhằm định hướng cho các nhà ĐTNN hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật qui định, tuân thủ tốt các qui định pháp luật của nước tiếp nhận FDI trên cả ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Nhờ đó mà hoạt động FDI phát huy tốt những tác động tích cực, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội và BVMT của vùng KTTĐ và hướng tới mục tiêu PTBV vùng KTTĐ.
2.1.3.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm không phải là hoạt động tự thân mà cần phải có định hướng dẫn dắt của Nhà nước; ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp FDI; sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội
Bản chất hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nói chung và FDI nói riêng là tìm kiếm lợi nhuận. Nếu đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng tới mục tiêu PTBV (cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường) sẽ có nguy cơ làm giảm hiệu quả đầu tư, do đó, làm giảm lợi nhuận. Vì vậy, các nhà ĐTNN thường ít chú ý, thậm chí là lẩn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm của họ với sự tiến bộ xã hội và BVMT của nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn 26 năm tiếp nhận FDI ở Việt Nam cho thấy những công nghệ, máy móc, thiết bị được cung cấp bởi các nhà ĐTNN được đưa vào thực hiện dự án thường là những công nghệ đã lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và gây ô nhiễm môi trường. Hành vi chuyển giá, trốn thuế nhằm gia tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI khá phổ biến và trở thành đặc điểm của FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Chuyển giá trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã gây tác động xấu về nhiều mặt như: gây thất thu lớn cho Ngân sách nhà nước, làm méo mó môi trường kinh doanh, tạo ra sự bất bình đẳng đối với các doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ thuế. Đặc biệt, chuyển giá còn làm suy giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương kêu gọi đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và đối với vùng KTTĐ nói riêng. Tất cả điều đó dẫn đến tình trạng những mục tiêu cần đạt được trong thu hút FDI vào các vùn g KTTĐ thường khó đạt hiệu quả và cần thiết phải có sự định hướng, dẫn dắt của Nhà nước, của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của FDI đối với PTBV vùng KTTĐ.
Đặc điểm này đặt ra yêu cầu trách nhiệm về hành vi của cả ba chủ thể trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thể hiện qua sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 2.2: Tam giác hành vi của ba chủ thể trong hoạt động FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ
Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương
Doanh nghiệp FDI
Cộng đồng dân cư
và các tổ chức xã hội
Như vậy, qua sơ đồ trên đây cho thấy, rõ ràng cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa ba chủ thể trong hoạt động FDI để hướng hoạt động FDI tới mục tiêu đảm bảo sự phát triển bền vững ở vùng KTTĐ. Cụ thể là:
Đối với Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương: cần phải tạo dựng khung khổ luật pháp, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát hoạt động FDI. Đặc biệt là Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách hợp lý để định hướng, dẫn dắ t dòng vốn FDI vào vùng động lực, vùng KTTĐ theo mục đích, yêu cầu cụ thể. Cụ thể là: các vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung phải tiến hành lập báo cáo, xây dựng các tiêu chí đánh giá tác động của đầu tư nói chung, FDI nói riêng cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là công việc khó khăn và phức tạp, nhất là đối với các nước đang phát triển ở trình độ thấp. Đôi khi, vì mục tiêu kinh tế và mục tiêu trước mắt, các địa phương, các vùng kinh tế đã bất chấp hoặc thực hiện công việc đánh giá tác động của FDI không đảm bảo chất lượng, dẫn đến những hệ lụy khó lường cả về kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là môi trường ở các vùng KTTĐ - nơi tập trung nhiều dự án FDI hơn so với các vùng khác trong cả nước. Việc định hướng và dẫn dắt dòng vốn FDI và quản lý hoạt động FDI được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống các chính sách và pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư, đảm bảo hoạt động FDI vào vùng KTTĐ phải theo hướng PTBV.
Đối với các doanh nghiệp FDI: phải tuân thủ luật pháp, chính sách, các qui định về FDI của nước tiếp nhận đầu tư, tăng cường đầu tư cho công tác BVMT nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái và môi trường sống của dân cư vùng KTTĐ.
Đối với cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội: phải có trách nhiệm tham gia
giám sát hành vi của các doanh nghiệp FDI nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những hành vi xâm hại đến môi trường, góp phần tích cực trong công tác BVMT ở vùng KTTĐ.
2.1.3.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ phải gắn với mục tiêu PTBV của cả nước và gắn với xu hướng tất yếu trong tiến trình phát triển chung của thế giới đương đại
Vùng KTTĐ là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia hội tụ đầy đủ các
điều kiện thuận lợi để phát triển với tư cách là một vùng động lực. Do đó, đầu tư tr ực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ không những không thể tách rời mục tiêu PTBV của cả nước mà còn được đặt ra với tư cách là một mắt xích quan trọng trong hệ thống mục tiêu PTBV của quốc gia. Mục tiêu PTBV của quốc gia có đạt được hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự PTBV của các vùng KTTĐ.
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ phải gắn với xu thế tất yếu chung của thế giới, được thể hiện ở chỗ: Sự nóng lên của trái đất ngày
càng rõ rệt trên phạm vi toàn cầu và xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là sự đốt cháy và xả thải của nguồn năng lượng hóa thạch, đặc biệt là nguồn xả thải xuất phát từ các dự án FDI với công nghệ thấp, tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên hoặc do nhà ĐTNN không quan tâm đầu tư cho các phương án xử lý chất thải,... Điều này hiện đang là mối đe dọa lớn đến sự trường tồn của bản thân trái đất, buộc các quốc gia trên thế giới dù là nước phát triển hay đang phát triển phải cùng nhau nghiên cứu và sáng tạo ra các phương thức tăng trưởng xanh, thúc đẩy xã hội PTBV và BVMT. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới khi thu hút FDI vào các vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung đều phải định hướng và dẫn dắt nguồn vốn FDI theo hướng PTBV và phải tuân thủ qui tắc ứng xử chung về PTBV của cộng đồng thế giới.
2.2. NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
2.2.1. Nội dung và tiêu chí đánh giá đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm
2.2.1.1. Nội dung và tiêu chí đánh giá đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững về kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV về ki nh tế vùng KTTĐ được hiểu
là những tác động tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ của cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở vùng KTTĐ; đảm bảo cho vùng KTTĐ có sự đóng góp vượt trội vào nền kinh tế chung của cả nước và thực sự trở thà nh động lực phát triển cho cả nước. Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV về kinh tế vùng KTTĐ phải đảm bảo được các nội dung cơ bản sau đây:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tích cực trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của vùng KTTĐ
Đóng góp quan trọng nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của vùng, đảm bảo cho vùng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và cao hơn so với các vùng khác trong cả nước; đi đầu trong một số lĩnh vực là thế mạnh của vùng, nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh, đảm bảo tính hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của các địa phương trong vùng KTTĐ.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện ở cả qui mô và tốc độ tăng trưởng của vùng KTTĐ.
Sự tăng trưởng đó được đảm bảo với tốc độ cao hợp lý, liên tục, dài hạn và ổn định trên phạm vi toàn vùng KTTĐ. Qui mô và tốc độ tăng trưởng của vùng KTTĐ phải được coi là “đầu tàu” hay “điểm sáng” tăng trưởng của cả nền kinh tế, có vai trò dẫn dắt tăng
trưởng kinh tế của các vùng khác cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Tiêu chí đánh giá nội dung này bao gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng của khu vực FDI so với tốc độ tăng trưởng của vùng KTTĐ;
+ Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào tăng trưởng kinh tế của vùng KTTĐ.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐ theo hướng tiến bộ
Cơ cấu kinh tế vùng KTTĐ chính là “xương sống” hay “trụ cột” tăng trưởng và phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐ bao gồm các loại: cơ cấu ngành kinh tế của vùng KTTĐ, cơ cấu tiểu vùng của vùng KTTĐ và cơ cấu thành phần kinh tế của vùng KTTĐ. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế của vùng KTTĐ giữ vai trò then chốt trong thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội và BVMT của toàn vùng; có tác động lan tỏa sang các vùng khác trong cả nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển, phản ánh sự thay đổi về chất đối với nền kinh tế của một quốc gia nói chung và của vùng KTTĐ nói riêng. Điều này có liên quan trực tiếp và mật thiết đến cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành và lĩnh vực. Tuy nhiên, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, mục tiêu của các nguồn vốn tư nhân, trong đó có nguồn vốn tư nhân nước ngoài là hướng vào lợi nhuận, vào mục tiêu kinh tế, do đó, họ không sẵn sàng đầu tư gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ của nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, vấn đề đặt ra chính là cần phải làm gì và làm như thế nào để nguồn vốn này phát huy tác động tích cực là gắn nguồn vốn FDI với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ của vùng KTTĐ; phát triển các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao, không gây ô nhiễm môi trường ở vùng KTTĐ.
Do đó, đánh giá nội dung này, cần phải xem xét xem cơ cấu FDI theo ngành có
phù hợp với tiềm năng, lợi thế của vùng KTTĐ hay không? Có phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐ hay không?... Bên cạnh đó , cần phải tính toán được mức đóng góp của khu vực FDI vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐ, thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ trọng GTSXCN của khu vực FDI so với tổng GTSXCN của vùng KTTĐ;
+ Tỷ trọng GTSX của khu vực FDI so với GTSX của toàn vùng.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu của vùng KTTĐ
Vùng KTTĐ được hình thành và phát triển nhằm mục tiêu thu hút mọi nguồn vốn, trong đó có nguồn vốn của các nhà ĐTNN để phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.