Khái Niệm, Đặc Điểm Và Yêu Cầu Đối Với Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM


2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

2.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài

Sau chiến tranh thế giới thứ II, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã không ngừng tăng lên, thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế. Sự gia tăng dòng vốn FDI đã trở thành một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế hiện đại. Do đó, cho đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về FDI.

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

“Một khoản đầu tư với những qu an hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó” 137, tr.31.

Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng đưa ra định nghĩa về FDI như sau:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - 5

“Một đầu tư được coi là đầu tư trực tiếp khi phần sở hữu của nhà đầu tư đủ để cho phép kiểm soát công ty, còn trong khi đầu tư chỉ cho nhà đầu tư được hưởng khoản thu nhập nhưng không cho quyền kiểm soát đối với công ty, nói chung được coi là đầu tư gián tiếp” 92, tr.73.

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như sau:

FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường h ợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty” 111.


Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm:

“Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty” 137, tr.31.

Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia nào cũng đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư g ián tiếp.

Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm:

“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên c ơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này” 93, tr.6.

Theo Luật Đầu tư năm 2005 thì:

“ĐTNN là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác đtiến hành hoạt động đầu tư” [56, tr.10] và “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham g ia quản lý hoạt động đầu tư” [56, tr.8].

Mặc dù còn có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định nghĩa FDI, song có thể thấy, hầu hết các tổ chức, các nhà kinh tế đều thừa nhận và thống nhất về khái niệm FDI ở hai điểm: quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh quyền sở hữu khống chế của các nhà ĐTNN. Quyền kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi thế mà các nhà đầu tư trực tiếp có được so với các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, quyền kiểm soát kinh doanh lại chịu ảnh hưởng nhất định bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần tổi thiểu hay quyền sở hữu khống chế của các nhà ĐTNN. Tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngo ài là yếu tố quyết định đến tính chất trực tiếp của các nhà ĐTNN trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp, được qui định bởi luật pháp của từng nước. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ ĐTNN chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật ĐTNN của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và qui định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án .

Từ những khái niệm và phân tích trên đây, tác giả luận án thống nhất với khái

niệm về FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà ĐTNN đưa vốn bằng tiền


hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước tiếp nhận đầu tư để có được quyền sở hữu và quản lý một thực thể kinh tế hoạt động lâu dài ở nước đó với mục tiêu lợi nhuận.

Như vậy, qua định nghĩa trên cho thấy bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là

đầu tư, là hoạt độn g tìm kiếm lợi nhuận bằng con đường kinh doanh của chủ ĐTNN. Bởi thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài mang đầy đ ủ những đặc trưng của đầu tư nói chung. Ngoài ra, nó còn có thêm một số đặc điểm quan trọng khác so với các hình thức đầu tư khác như sau:

Thứ nhất, FDI là loại hình chu chuyển vốn quốc tế trong đó chủ sở hữu vốn đầu tư là người nước ngoài, tiến hành hoạt động đầu tư ở nước ngoài, có nghĩa là doanh nghiệp tiếp nhận vốn FDI không thuộc quốc gia của chủ đầu tư. Đặc điểm này có liên quan đến các khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán,... là các yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ ĐTNN.

Thứ hai, FDI gắn liền với việc di chuyển các yếu tố đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia. Các yếu tố đầu tư có thể là tài s ản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Ngoài ra, hoạt động FDI còn bao gồm cả hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư. Do đó, đối với từng loại tài sản khác nhau đòi hỏi nước tiếp nhận đầu tư phải có những cơ chế, chính sách bảo hộ quyền của chủ đầu tư sao cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng loại.

Thứ ba, FDI được thực hiện thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới ở nước ngoài, mua lại từng phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. Điều này cho thấy tính đa dạng của các hình thức và phương thức đầu tư FDI.

Thứ tư, quyền quản lý doanh nghiệp FDI phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư vào vốn pháp định . Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này do pháp luật của từng nước qui định và là yếu tố quyết định tính chất trực tiếp trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp của các nhà ĐTNN. Theo đó, FDI sẽ là người chủ sở hữu hoàn toàn hoặc đồng chủ sở hữu với một tỷ lệ góp vốn nhất định, đủ m ức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp góp 100% vốn pháp định, nhà ĐTNN có toàn quyền quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đảm bảo tỷ lệ sở hữu ở mức khống chế còn là cơ sở để các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trở thành những chi nhánh của các công ty ở nước đầu tư. Đây là


yếu tố làm tăng tính chất toàn cầu của mạng lưới các công ty đi đầu và tạo cơ sở để các công ty đó thực hiện hoạt động chu chuyển vốn, hàng hoá trong nội bộ công ty, tránh được hàng rào thuế quan, tiết kiệm chi phí giao dịch.

Thứ năm, FDI chủ yếu là hoạt động đầu tư của tư nhân với mục tiêu cơ bản là

lợi nhuận. Vì thế, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI phần lớn là những lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận cao.

Thứ sáu, FDI gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, nhãn hiệu sản phẩm có uy tín và danh tiếng trên toàn cầu; đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng điều hành các hoạt động sản xuất và phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao. Các nước đang phát triển có thể tiếp cận với các công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động FDI để thu hút nguồn vốn lớn, công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý, cải thiện năng lực cạnh tranh,…

Thứ bảy, FDI là loại hình đầu tư trực tiếp và dài hạn. Do đó, vốn FDI là nguồn

vốn tương đối ổn định, bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước ở các nước đang phát triển. FDI không phải là vốn vay nên nước tiếp nhận vốn không phải lo trả nợ và FDI cũng ít chịu sự chi phối, ràng buộc bởi mối quan hệ chính trị giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư như vốn ODA.

2.1.1.2. Khái niệm đầu tư trực ti ếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

- Khái niệm phát triển bền vững vùng KTTĐ

Khái niệm hoàn chỉnh về phát triển bền vững được thống nhất đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) được tổ chức tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi (năm 2002). Theo đó: PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người trong hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứn g nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Đây là một khái niệm nhằm khẳng định sự phát triển toàn diện được thể hiện ở cả

khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường, với mục tiêu cụ thể là vì con người trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai. PTBV là cách thức phát triển mà loài người đang theo đuổi và hy vọng rằng sẽ giải quyết được những nhược điểm của quá trình phát triển vừa qua trên thế giới. Vì thế, PTBV hiện nay đã trở thành


xu thế tất yếu trong tiến trình phát triền kinh tế của xã hội loài người và đang là yêu cầu cấp bách của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần phải hoạch định chiến lược PTBV riêng sao cho phù hợp với đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa,... của quốc gia mình, song nhất thiết phải giải quyết được ba nội dung, ba mối quan hệ sau đây: (i) tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với đảm bảo các vấn đề xã hội (tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư); (ii) tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với đảm bảo môi trường trong sạch (khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; không gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường và không ngừng nuôi dưỡng và cải thiện chất lượng môi trường); (iii) tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo quốc phòng, an ninh và an toàn xã hội.

Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, ngày 7 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định 183/2004/QĐ -TTg về Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (hay còn gọi là Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam - Agenda - 21 Việt Nam). Theo đó, mục tiêu của Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện đồng bộ Chiến lược PTBV của từng ngành, từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến phát triển bền vững các vùng KTTĐ.

Vùng KTTĐ là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia (bao gồm một số tỉnh, thành phố nhất định) hội tụ được các điều kiện, yếu tố và tiềm năng (điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội,..) thuận lợi để phát triển với tư cách là vùng động lực, là đầu tàu có khả năng lôi cuốn, tác động lan tỏa theo hướng tích cực đến các vùng và tiểu vùng khác, cũng như toàn bộ đất nước.

Vùng KTTĐ cũng có những đặc điểm chủ yếu sau đây: [101, tr.440 -441]

Bao gồm phạm vi của nhiều tỉnh, thành phố có đặc điểm khá tương đồng nhau (về vị trí, điều kiện tự nhiên, ti ềm năng, thế mạnh,...). Số lượng và phạm vi lãnh thổ của mỗi vùng KTTĐ có thể thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, tập trung tiềm lực kinh tế và có vị thế hấp dẫn các nhà đầu tư, thể hiện ở sự phát triển vượt trội về kết cấu hạ tầng (giao thông, mạng lưới điện, viễn thông); về chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ phát triển kinh tế; ...

Có tỷ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia, có khả năng tạo ra tốc độ phát triển nhanh cho cả nước và có thể hỗ trợ cho các vùng khác.


Có khả năng tạo tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng; đồng thời có thể tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Trên cơ sở đó, vùng KTTĐ không những tự đảm bảo nguồn tài chính cho mình, mà còn có khả năng hỗ trợ cho các vùng khác.

Có khả năng thu hút những ngành công nghiệp mới và các ngành dịch vụ then chốt, để rút kinh nghiệm về mọi mặt cho các vùng khác trong phạm vi cả nước. Từ đây, tác động lan tỏa tới các vùng và tiểu vùng xung quanh.

Với việc làm rõ khái niệm, yêu cầu của PTBV cũng như đặc điểm riêng có của vùng KTTĐ, tác giả luận án đưa ra quan niệm về PTBV vùng KTTĐ như sau: PTBV vùng KTTĐ là sự phát triển đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa bền vững về kinh tế với bền vững về xã hội và bảo vệ môi trường trong nội tại các vùng KTTĐ và có tác động lan tỏa tích cực đến sự phát triển bền vững của quốc gia. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, PTBV vùng KTTĐ được xem xét trong khuôn khổ một vùng kinh tế hay là sự PTBV bản thân vùng KTTĐ, bao g ồm tính bền vững trong cả ba lĩnh vực: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Tuy nhiên, với tư cách là vùng kinh tế động lực, có vai trò lôi kéo các vùng kinh tế khác, các nội dung PTBV vùng KTTĐ phải được đặt ra với yêu cầu ca o hơn, trong đó đặc biệt là yêu cầu tính bền vững về kinh tế.

Theo quan niệm này, PTBV vùng KTTĐ phải đảm bảo hội tụ 3 nội dung: [79], [47]

+ PTBV vùng KTTĐ về kinh tế: thể hiện ở khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có của vùng, có khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế một cách có hiệu quả trong dài hạn và cao hơn các vùng khác trong cả nước , tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Các tiêu chí đánh g iá cho nội dung này bao gồm: (i) Tốc độ tăng trưởng kinh tế và qui mô tăng GDP: phải cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước; (ii ) Tốc độ tăng trưởng GDP so với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất - GO: nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất phản ánh một cấu trúc tăng trưởng hợp lý và có hiệu quả; (iii) Hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế vùng KTTĐ, bao gồm: hiệu quả sử dụng lao động được tính bằng mức GDP/lao động theo giá hiện hành hoặc theo giá cố định; hiệu quả sử dụng vốn được tính bằng mức đầu tư trên 1 đồng GDP; (iv) Cơ cấu ngành kinh tế trong vùng KTTĐ: phản ánh trình độ phát triển của vùng.

+ PTBV vùng KTTĐ về xã hội: thể hiện ở sự tác động tích cực của kinh tế vùng đến khả năng giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ; khả năng giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản cho dân cư trong vùng KTTĐ. Tiêu chí


đánh giá cho nội dung này bao gồm: (i) Số việc làm được tạo ra trong vùng; (ii) Tỷ lệ lao động được đào tạo; (iii) mức thu nhập bình quân đầu người; (iv) Trình độ phát triển giáo dục, đào tạo, y tế; ...

+ PTBV vùng KTTĐ về môi trường: thể hiện ở hoạt động của vùng KTTĐ phải gắn liền với các phương án BVMT trong vùng KTTĐ, đảm bảo khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên; thực hiện tái sinh nguồn tài nguyên, chống hiện tượng làm suy thoái và gây ô nhiễm môi trường; phát triển kinh tế luôn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển vùng KTTĐ. Các tiêu chí đánh giá cho nội dung này bao gồm: (i) Khả năng xử lý chất thải của vùng KTTĐ; (ii) Mức độ và khả năng thay thế tài nguyên truyền thống bằng tài nguyên do khả năng tri thức của con người tạo ra; (iii) Sự phát triển các mô hình công nghiệp sinh thái với các sản phẩm và chất thải được tái sử dụng.

- Khái niệm FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ

Với những đặc điểm riêng có của vùng KTTĐ như đã đề cập trên đây, có thể nói, vùng KTTĐ luôn là tâm điểm trong thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng KTTĐ cũng có những nét riêng biệt so với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các vùng lãnh thổ khác. Cụ thể là: Số lượng và qui mô dự án FDI thường lớn hơn; đối tác đầu tư đa dạng,

phong phú với những nền văn hóa kh ác nhau; đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng KTTĐ có cơ hội được tiếp cận với các điều kiện thuận lợi thuộc “cơ sở hạ tầng cứng” và “cơ sở hạ tầng mềm” như điều kiện tự nhiên, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, hệ thống giao thông vận tải, chính sách ưu đãi,... nên có cơ hội thành công hơn; các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng KTTĐ thường liên quan đến các ngành công nghiệp chủ lực, các ngành công nghiệp mũi nhọn, do đó, góp phần quan trọng trong việc hình thành các ngành công nghiệp mới và thúc đẩy quá trình CNH cho vùng KTTĐ.

Mặc dù vậy, vùng KTTĐ cũng chính là nơi những vướng mắc của nhà ĐTNN, những bất cập của hệ thống chính sách, những nhu cầu mới của nhà đầu tư, những tác động tiêu cực của FDI cũng được thể hiện một cách rõ nét nhất ở cả ba khía cạnh của PTBV là: kinh tế, xã hội và môi trường. Điều này đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải có một cơ chế, chính sách quản lý mang tính đặc thù cho các vùng KTTĐ, nhằm hướng hoạt động FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.


Từ những phân tích trên đây, theo tác giả luận án, có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm là hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài vào vùng KTTĐ của nước khác, đáp ứng yêu cầu của quy hoạch, định hướng phát triển vùng đó; có tác động tích cực đến sự phát triển của vùng nhằm đảm bảo kết hợp hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường không chỉ đối với vùng KTTĐ, mà còn tác động lan tỏa đến các vùng khác cả trong hiện tại và tương lai.

2.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng KTTĐ mang đầy đủ những đặc điểm của đầu t ư trực tiếp nước ngoài thông thường. Ngoài ra, nó còn những đặc điểm riêng sau đây:

Một là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ mang tính chủ quan của nước tiếp nhận đầu tư nói chung và vùng KTTĐ nói riêng

Đầu tư trực tiếp nước ngoài l à việc tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một nước với mục tiêu lợi nhuận. Do đó, FDI đảm bảo theo hướng PTBV vùng KTTĐ phải đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển của vùng KTTĐ. Mục tiêu này lại hoàn toàn do các nhà hoạch định chính sách đưa ra , dựa trên những điều kiện cụ thể của vùng KTTĐ về điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các nguồn lực phát triển của vùng KTTĐ... Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ phụ thuộc vào ý thức chủ quan của nước tiếp nhận đầu tư nói chung và của vùng KTTĐ nói riêng.

Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ hàm chứa mục tiêu khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động và khoa học công nghệ ở vùng KTTĐ. Theo đó, FDI khi đưa vào triển khai hoạt động phải được tính toán dựa trên sức chứa hợp lý của vùng KTTĐ về các điều kiện như: cấp nước, đất đai, môi trường, hệ sinh thái,... nếu không sẽ dẫn đến sự quá tải trong phát triển vùng KTTĐ, ảnh hưởng đến khả năng cung cấp các nguồn lực đầu vào cho hoạt động FDI.

Ba là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ luôn hướng tới sự phát triển cân đối, hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT; tạo sức bật mới, có tác động lan tỏa tron g phát triển của vùng KTTĐ tới các vùng khác trong cả nước.

Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ hướng đến việc coi trọng chất lượng hơn là số lượng dự án F DI, có nghĩa là coi trọng những dự án

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí