Thứ năm: Chú trọng khai thác hiệu quả thị trường nội địa; từ đó nghiên cứu và xúc tiến mở rộng thị trường nước ngoài. Doanh số dịch vụ phát triển phần mềm năm 1997 đạt 28 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,5 triệu USD; năm 1999 đạt trên 40 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt khoảng 5 triệu USD. Năm 2000, doanh thu của công nghiệp phần mềm đạt 50 triệu USD; dự kiến năm 2005 có thể đạt khoảng 500 triệu USD [48]. Những con số trên cho thấy, trong tổng doanh thu của công nghiệp phần mềm thì mới chỉ có một phần nhỏ là xuất khẩu, còn lại là để phục vụ thị trường trong nước. Có thể nói rằng, nhu cầu của thị trường nội địa đối với các sản phẩm công nghệ thông tin là rất lớn. Nguyên nhân là bởi, bản thân yêu cầu phát triển nền kinh tế quốc dân đã và đang mở ra rất nhiều cơ hội cho thị trường nội địa trong việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin, do đó càng góp phần thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển. Hơn nữa, trong những bước đi đầu tiên, thị trường nội địa chính là nơi tốt nhất để các chuyên gia công nghệ phần mềm rèn luyện và thử thách thông qua sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Để từ đó, đem những kinh nghiệm tích lũy được phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng quốc tế.
3.3.3. Định hướng cho hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Đánh giá về triển vọng kinh tế và đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đều nhất trí cho rằng, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, vấn đề Việt Nam cần quan tâm là coi trọng hơn nữa đến chất lượng tăng trưởng chứ không chỉ dừng lại ở số lượng [42].
Hiện nay, hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề:
+)Một là: Tính bền vững không cao. Trong 17 năm thực hiện Luật Đầu tư Nước ngoài, chỉ giai đoạn 1991-1996 là hoạt động thu hút FDI phát triển toàn diện, 11 năm còn lại tăng trưởng không ổn định. Xu hướng này xuất hiện trước hết ở những trung tâm lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân chủ quan là do thủ tục hành chính nhiêu khê nhưng chậm sửa đổi [20].
+) Hai là: Cơ cấu đầu tư không hợp lý, thể hiện ở các đặc điểm như:
Tỷ lệ vốn đầu tư cho khu vực nông, lâm, thuỷ sản; cho các vùng nghèo nhưng có nhiều tiềm năng về lao động, đất đai; các địa phương ở vùng sâu vùng xa vẫn còn quá ít.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Kinh Nghiệm Phát Triển Công Nghệ Phần Mềm Hướng Vào Xuất Khẩu
- Định Hướng Phát Triển Công Nghệ Phần Mềm Trong Quá Trình Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Đất Nước
- Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 18
- Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 19
Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.
Hầu hết các dự án chỉ tập trung vào những thành phố, thị xã, khu công nghiệp hoặc ven các đô thị lớn, gần các trục đường giao thông.
+) Ba là: Hiệu quả FDI đối với kinh tế Việt Nam tăng chậm thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế FDI có xu hướng chậm hơn so với trước và so với các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước. Nguyên nhân phần nhiều là do:
Các yếu tố chủ quan như cơ sở hạ tầng kém, thủ tục hành chính khó khăn nên chưa tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Việt Nam chưa có hoạt động xúc tiến đầu tư, không hiểu đối tác muốn gì và cần gì. Từ trước đến nay phần lớn là các nhà đầu tư tự tìm đến, còn số doanh nghiệp được mời đến là chưa có; đặc biệt là đối với các dự án có tác động làm thay đổi lớn đến cơ cấu kinh tế đất nước và có khả năng tạo đột biến trong thu hút FDI.
Khâu chuẩn bị danh mục, địa bàn, nhân lực để kêu gọi đầu tư của các ngành và các địa phương chưa đồng bộ. Cái thiếu của các địa phương vẫn là quy hoạch dài hạn và danh mục các dự án mời gọi chưa rò ràng,
hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém, nguồn lực tại chỗ nhất là lao động kỹ thuật cao còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu của đối tác.
+) Bốn là: Vấn đề mối quan hệ giữa lựa chọn công nghệ khi thu hút đầu tư với vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Đây thực sự là vấn đề nan giải không chỉ với Việt Nam mà với hầu hết các nước đang phát triển bởi công nghệ tiên tiến và việc làm đều là những nhu cầu cấp bách [47]. Song tùy từng thời điểm và từng dự án cụ thể, chúng ta có thể có những điều chỉnh phù hợp để hoạt động đầu tư nước ngoài thực sự đem lại hiệu quả thiết thực, đảm bảo phát triển bền vững.
Hiện Việt Nam được xem là nước đứng thứ 5 ở khu vực Đông Nam Á, thứ 11 ở Châu Á và 34 trên thế giới về thu hút vốn đầu tư [26]. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, trong các năm tới, đầu tư nước ngoài ở khu vực Châu Á sẽ diễn biến theo hai chiều hướng trái ngược nhau. Chiều hướng thứ nhất: Các công ty đa quốc gia cấu trúc lại các nhà máy của họ tại khu vực ASEAN và có thể một phần tại Việt Nam để chuyển sang nước khác có lợi thế cạnh tranh về thị trường xuất khẩu hơn như Trung Quốc. Chiều hướng thứ hai: Các công ty đa quốc gia sẽ chọn Việt Nam là điểm đầu tư để tránh tập trung quá nhiều vào Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, định hướng quan trọng hàng đầu của Việt Nam về thu hút FDI là tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn, tạo sự chú ý của các đối tác khi chọn địa bàn đầu tư. Để thực hiện định hướng này có rất nhiều việc phải làm, trong đó giải pháp trước mắt là:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về Đầu tư nước ngoài, tiêu biểu là Luật Đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư được bổ sung, hoàn thiện, sửa đổi sao cho đảm bảo thực sự hấp dẫn, thông thoáng, rò ràng, nhất quán, ổn định, có tính cạnh tranh cao. Bên cạnh đó, hoàn thiện cả các bộ luật liên quan và bổ sung các chính sách kinh tế - tài chính theo hướng xóa bỏ mọi
sự phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài. Tiến tới xây dựng một bộ luật chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo mặt bằng pháp lý chung và dần dần xóa bỏ sự phân biệt giữa các nhà đầu tư.
Thứ hai: Xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng. Phải coi cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không những trước mắt và cả lâu dài, không chỉ tạo tiền đề cho thu hút đầu tư mà cho cả sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Có kế hoạch tập trung đầu tư để hoàn thiện hệ thống giao thông liên hoàn như đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, hàng không, bến cảng… tạo điều kiện thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến các địa phương, các vùng trong cả nước và liên thông với quốc tế được an toàn, tiện lợi; giả m thiểu chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có kế hoạch thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh như kho tàng, bến bãi, điện, nước, xử lý chất thải…nhất là cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp tập trung và những nơi cần thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Bên cạnh hạ tầng phục vụ trực tiếp cho sản xuất, cũng nên quan tâm đến hạ tầng xã hội như các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho các chuyên gia, nhà ở cho người lao động, điều kiện khám chữa bệnh…để tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, có sức thu hút các nhà đầu tư.
Thứ ba: Cải cách mạnh các thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cải thiện theo hướng đơn giản hóa các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, mở rộng các hình thức đăng ký và danh mục dự án khuyến khích đầu tư, tăng tính tự giác của nhà đầu tư. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung Ương và địa phương, phân định rò quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong giải quyết các vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài. Kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực của các cán bộ liên quan đến hoạt động đầu tư, nhất là ở cấp địa phương. Mạnh dạn cắt bỏ các loại chi
phí về cơ sở hạ tầng như chi phí điện nước, viễn thông, giao thông và các chi phí thuê đất...nhằm giảm chi phí sản xuất cho các nhà đầu tư, thu hút họ đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Thứ tư: Thực hiện cải thiện môi trường kinh doanh. Trước hết là nhanh chóng thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Giải quyết tốt những vấn đề có tác động không nhỏ đến FDI như tỷ giá, lãi suất, quản lý ngoại hối, chuyển tiền, chính sách đất đai…tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Thực hiện cải cách hệ thống thuế hiện hành, giảm thuế thu nhập cá nhân, xây dựng chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện; tiến tới xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ, phục vụ cho sự phát triển của đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế phải khyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào xuất khẩu, áp dụng công nghệ cao và chuyển giao công nghệ. Tạo điều kiện để doanh nghiệp được chủ động trong việc thuê và sử dụng lao động; đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tuyển dụng lao động và người lao động, duy trì trật tự an ninh xã hội.
Thứ năm: Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình thu hút và sử dụng FDI. Bao gồm quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch sản phẩm và danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo sự liên kết chặt chẽ giữa Trung Ương và địa phương trong hoạt động quảng bá đầu tư nước ngoài. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch, để các danh mục dự án thu hút FDI được cụ thể, chính xác, cập nhật; làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện được rò ràng và đồng bộ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Sau những phân tích của toàn bộ chương 3, có thể rút ra một số kết luận về kinh nghiệm phát triển kinh tế của Ấn Độ và khả năng vận dụng những
kinh nghiệm ấy để góp phần đẩy nhanh công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam.
Trải qua một quá trình dài thực hiện đổi mới, phát triển nền kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam đã đạt một số thành tựu quan trọng. So với Ấn Độ, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế sớm hơn và mở cửa nhanh hơn, nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa tạo dựng được một nền tảng hiện đại và bền vững cho quá trình công nghiệp hóa. Qua công cuộc cải cách kinh tế Ấn Độ, Việt Nam có thể tham khảo một số kinh nghiệm tiêu biểu và nổi bật, đó là:
Kinh nghiệm về khả năng hoạch định chiến lược cải cách ngoại thương trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
Kinh nghiệm về phát triển công nghệ phần mềm.
Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có trọng điểm.
Trước hết, nói về kinh nghiệm cải cách ngoại thương. Trong cơ cấu xuất khẩu, Ấn Độ đã chuyển dần từ nước chủ yếu xuất khẩu hàng sơ chế sang hàng hóa chế tạo; trong đó khu vực hàng chế tạo đã mở ra nhiều cơ hội cho việc ứng dụng những thành quả của công nghệ thông tin, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Trong khi đó, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cho tới nay đã có thay đổi nhưng chưa nhiều, chủ yếu vẫn là các sản phẩm khoáng sản và nông sản ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế như dầu mỏ, cà phê, thuỷ sản…do đó giá trị gia tăng của hàng hóa chưa cao, lại phụ thuộc quá nhiều vào tình hình giá cả thế giới. Đây thực sự là điều chúng ta cần nghiên cứu để hoạch định giải pháp tối ưu cho hoạt động xuất khẩu.
Chính phủ Ấn Độ đã có những định hướng chính xác trong việc phát triển công nghệ phần mềm hướng vào xuất khẩu. Có thể nói, đường lối đúng đắn trong chiến lược ngoại thương đã mang lại thành công to lớn cho lĩnh vực xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ, một ngành được xem như mũi nhọn trong
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia này. Ấn Độ đã đặt hy vọng vào lĩnh vực xuất khẩu phần mềm, ấn định đây là lĩnh vực mũi nhọn và coi đó như động lực của tăng trưởng kinh tế. Đối với Việt Nam, nếu muốn đẩy mạnh công nghiệp phần mềm thì ít nhất cũng phải đầu tư phát triển được những lợi thế tương đương hoặc gần bằng Ấn Độ. Ngoài ra, chúng ta cần cố gắng khắc phục những yếu kém như đã nêu trên để có thể mới vươn tới một tầm cao mới trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo, ứng dụng, xuất khẩu phần mềm - một ngành công nghiệp tiêu biểu của thế giới trong thế kỷ mới.
Về kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì là đất nước có lợi thế trong những ngành cần nhiều chất xám tiêu biểu là ngành công nghệ thông tin, nên Ấn Độ chủ trương thu hút FDI vào các ngành công nghiệp dịch vụ đặc biệt là các ngành công nghiệp dịch vụ dựa trên công nghệ thông tin. Đất nước này đã lựa chọn con đường kết hợp thu hút FDI với phát triển các doanh nghiệp trong nước, hướng đi ấy tuy chậm nhưng sẽ bền vững vì biết tranh thủ nội lực. Ngoài ra, Ấn Độ đã biết tận dụng những ưu thế của mình như thị trường rộng, khả năng cung ứng nhân lực chất lượng cao, khả năng sử dụng tiếng Anh thành thạo, thị trường tài chính tiền tệ ổn định…hơn thế nữa là nguồn vốn đầu tư của Ấn Kiều để phát triển kinh tế đất nước. Với Việt Nam, khả năng cạnh tranh quốc tế của chúng ta vẫn còn rất yếu. Đã đến lúc Việt Nam không thể coi lao động giá rẻ là là lợi thế cạnh tranh của mình mà cần hướng đến các lợi thế cạnh tranh mới, đây là điểm mà Việt Nam có thể tham khảo rất hiệu quả từ Ấn Độ. Hơn nữa, hầu hết FDI ở nước ta chỉ tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu thay vì hướng vào xuất khẩu. Trái lại, một trong những mục tiêu chính hiện nay của chính sách cải cách Ấn Độ là loại bỏ những cản trở cho sản xuất hướng vào xuất khẩu, đồng thời thu hút các công ty xuyên quốc gia bỏ vốn một cách hiệu quả nhất. Các nguồn đầu tư này có thể giúp Ấn Độ sản xuất hướng vào xuất khẩu. Đây cũng là điều mà
chúng ta nên tham khảo trong hoạt động thu hút và định hướng cho nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với những kinh nghiệm của Ấn Độ trong quá trình cải cách nền kinh tế, Việt Nam có thể dựa vào đó để đề ra những định hướng tham khảo cho mình. Những kinh nghiệm ấy thực sự rất phù hợp với chiến lược và chính sách của Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đạt hóa trong những năm tới, nhằm mục tiêu “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rò rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” theo tinh thần của Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn Quốc lần thứ IX - Đảng Cộng Sản Việt Nam [23], với những chính sách cụ thể như sau:
Đạt mức tăng trưởng bình quân 7,5%/năm. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa; ưu tiên cho phát triển công nghiệp và dịch vụ; tiếp thu công nghệ cao.
Nhanh chóng thu hút và tăng đầu tư vào phát triển kinh tế và xã hội, tập trung vào những lĩnh vực kinh tế then chốt và trọng điểm; nâng cao đời sống nhân dân, tạo thêm nhiều chỗ làm mới.
Mở rộng xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế của xuất khẩu. Xúc tiến hơn nữa khả năng hội nhập của đất nước vào kinh tế toàn cầu.
Tiếp tục đổi mới và xây dựng cơ sở cho việc hiện đại hóa và phát triển giáo dục, đào tạo nghề, khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị đưa đất nước phát triển theo hướng kinh tế tri thức.