thuế suất mà các quốc gia phát triển đề nghị (15%) hiện nay, vì vậy, mức thuế suất TNDN xoay quanh ngưỡng 23,5% có thể mang lại hàm ý chính sách cho các quốc gia đang phát triển trong quá trình thu hút FDI.
5.2.1.3 Hài hòa chính sách thuế
Theo chính sách hài hòa thuế, chính phủ sẽ áp dụng một mức thuế tương tự hoặc giống hệt nhau đối với người nộp thuế, bất kể họ làm việc ở đâu, tiết kiệm, mua sắm hoặc đầu tư ở các quốc gia nào. Do đó, người nộp thuế không thể hưởng lợi từ chính sách thuế tốt hơn ở các quốc gia khác, và Chính phủ được cách ly khỏi các quy luật thị trường. Do đó, lập luận phổ biến là sự hài hòa chính sách là tiền đề của tự do hóa. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng tác động của hài hòa chính sách là có điều kiện, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế (Gatsios & Karp, 1992; Bhagwati &Srinivasan, 1996; Baldwin & Krugman, 2004; Baller, 2007). Nếu không áp dụng chế độ hài hòa, các quốc gia có thể tham gia cạnh tranh thuế, dẫn đến mức thuế thấp không hiệu quả hoặc khái niệm “chạy đua xuống đáy”. Việc cắt giảm thuế này để cạnh tranh cho các yếu tố di động mang lại sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả và đi kèm với chi phí cho các yếu tố bất động. Mặt khác, hài hòa chính sách thuế bằng cách loại bỏ sự thay đổi về mức thuế giữa các quốc gia khác nhau, khuyến khích một thị trường duy nhất, sẽ không ảnh hưởng đến thuế thu nhập giữa các doanh nghiệp, các công ty có thể đưa ra các quyết định kinh tế hiệu quả dựa trên các nguyên tắc kinh tế cơ bản, từ đó sẽ dẫn đến cạnh tranh và phúc lợi cao hơn.
Hài hòa thuế có thể đạt được theo hai cách khác nhau:
Thứ nhất, Hài hòa thuế trực tiếp: Theo hình thức hài hòa thuế trực tiếp này, người nộp thuế không thể hưởng lợi từ chính sách thuế tốt hơn ở các quốc gia khác và Chính phủ được cách ly khỏi kỷ luật thị trường. Do đó, để áp dụng chính sách hài hòa thuế trực tiếp, các Chính phủ thường sử dụng hài hòa thuế đối với các loại thuế tiêu thụ (thuế gián thu), và khi các quốc gia đồng ý thiết lập mức thuế tối thiểu hoặc quyết định đánh thuế ở cùng một mức. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu yêu cầu các quốc gia thành viên áp thuế giá trị gia tăng (VAT) ít nhất 15%. EU cũng đã hài hòa thuế suất đối với nhiên liệu, rượu và thuốc lá, và có những nỗ lực liên tục để hài hòa thuế suất thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai, hài hòa thuế gián tiếp: Còn được gọi là sự hài hòa ngầm xảy ra khi Chính phủ đánh thuế thu nhập mà công dân của họ kiếm được ở các khu vực quốc gia khác. Chính sách này còn gọi là thuế toàn cầu, đòi hỏi Chính phủ phải có hệ thống trao đổi thông tin với quốc gia khác, vì việc làm và vốn thường chảy từ các quốc gia có thuế cao sang các quốc gia có thuế thấp. Theo hình thức hài hòa thuế gián tiếp này, giống như dưới hình thức trực tiếp nêu trên, người nộp thuế không thể hưởng lợi từ chính sách thuế tốt hơn ở các quốc gia khác. Trong trường hợp này, hài hòa thuế được định nghĩa là một quá trình trong đó các quốc gia trong cùng khu vực kinh tế cân bằng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và chuẩn hóa các cơ sở thuế doanh nghiệp (Bond & ctg, 2000). Sự hài hòa thuế xuất hiện để chống lại tác động của cạnh tranh thuế có hại (Gaigné & Riou, 2004). Khi các quốc gia không áp dụng chiến lược hài hòa thuế, điều này dẫn đến việc đánh thuế dưới mức tối ưu (Gaigné & Riou, 2004).
Tuy nhiên, hài hòa thuế loại bỏ quyền tự chủ của hệ thống thuế quốc gia và do đó các quốc gia sẽ bị hạn chế trong việc sử dụng chính sách tài khóa để đối phó với các cú sốc kinh tế (Fourcans & Warin, 2001). Hiện tại, hài hòa thuế thể hiện dưới hình thức hội nhập kinh tế quốc tế về thuế bao gồm:
• Thứ nhất, là thị trường duy nhất, được thiết lập theo hướng bỏ thuế quan và hàng rào thuế quan thương mại trong thị trường duy nhất mà các quốc gia tham gia, đồng thời với việc ban hành chính sách thuế quan chung tạo nền sản xuất chung, chẳng hạn như Khối thị trường chung châu Âu trước đây.
• Thứ hai, là liên minh thuế quan (CU). Các quốc gia phải cắt giảm thuế quan và bỏ thuế quan, cùng việc tuân thủ các chế định về chính sách thuế quan chung trong liên minh và chính sách thuế quan chung của liên minh với các quốc gia khác ngoài liên minh.
• Thứ ba, là khu vực mậu dịch tự do (FTA), các quốc gia tiến hành cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan có định lượng trong khu vực. Đối với thuế quan của các nước trong khu vực với thị trường của các quốc gia ngoài khu vực vẫn giữ theo chính sách thuế quan của mình, ví dụ như: AFTA của ASEAN, Hiệp định đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)...
• Thứ tư, là thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), các nước tham gia thỏa thuận dành cho nhau các ưu đãi thương mại bằng việc cắt giảm thuế quan cho một số mặt hàng
thương mại. Hội nhập kinh tế quốc tế có các nguyên tắc cơ bản sau: không phân biệt đối xử; cạnh tranh công bằng; áp dụng các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp cần thiết; ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển.
5.2.1.4 Hợp tác quốc tế về thuế chống xói mòn cơ sở thuế
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế toàn diện của các quốc gia trên thế giới, hoạt động hợp tác quốc tế về thuế trong những năm qua đã diễn ra rất mạnh mẽ ở những cấp độ khác nhau và những phạm vi khác nhau. Hợp tác quốc tế về thuế cũng giúp cơ quan thuế các quốc gia phối hợp cung cấp thông tin nhằm ngăn ngừa và phát hiện các hành vi gian lận thuế của các công ty đa quốc gia trong quá trình thu hút FDI.
Đối với các nước đang phát triển, theo nhận định của OECD, BEPS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển vì thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, đặc biệt là thuế TNDN. Việc tham gia vào Diễn đàn IF sẽ giúp các nước có được sự hỗ trợ cần thiết để triển khai các giải pháp ngăn chặn BEPS hiệu quả, giúp bảo vệ nguồn thu và cơ sở tính thuế. Vì lẽ đó, trong nhiều năm qua, các quốc gia trên thế giới đã có nhiều nỗ lực trong hợp tác quốc tế về thuế nhằm tối đa hóa lợi ích của FDI và giảm thiểu những tác động tiêu cực của nó.
Trên cơ sở này, các nước đang phát triển nên quan tâm sẽ phát triển một hiệp định thuế đa phương để đưa ra cách tiếp cận mới và hiệu quả đối với những vấn đề thuế quốc tế, phản ánh sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu và sự cần thiết phải thích ứng nhanh với quá trình phát triển này. Ngoài ra, việc ngăn chặn BEPS bằng các biện pháp đơn phương của mỗi nước không thực sự khả thi trong khi các biện pháp song phương như hiện nay cũng đang mất dần tính hiệu lực, hiệu quả do số lượng các DN hoạt động đa quốc gia ngày càng tăng, quy mô lớn, giao dịch phức tạp. Do đó, để ngăn chặn BEPS đòi hỏi các giải pháp mang tính tổng thể trên cơ sở hợp tác đa phương.
Đối với riêng Việt Nam, theo tiến trình hành động BEPS, Việt Nam đã chính thức tham gia và trở thành thành viên thứ 100 của Diễn đàn hợp tác thực hiện BEPS (IF) vào tháng 6/2017 và là thành viên thứ 159 của Diễn đàn toàn cầu về trao đổi thông tin về thuế từ ngày 26/12/2019. Cam kết thực hiện các hành động BEPS một cách nhất quán và toàn diện, cũng như các nước thành viên tham gia IF, Việt Nam phải tuân thủ 4 tiêu chuẩn tối thiểu, trong đó tiêu chuẩn ban hành quy định chống lợi dụng hiệp định thuế và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hiệp định thuộc các điều khoản của hiệp định
thuế đa phương. Vì vậy, đây không chỉ là hành động thể hiện cam kết quốc tế, mà còn chứng tỏ vai trò tích cực và tính trách nhiệm của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp với cơ quan thuế các nước, đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch và ổn định cho người nộp thuế. Đồng thời, thể hiện được uy tín và vị thế của Việt Nam đối với các nước trên thế giới. Theo hướng này, Việt Nam cần chủ động tham gia các phiên họp Ban chuyên trách của OECD để nắm bắt, hiểu rõ nội dung, ý nghĩa từng điều khoản của hiệp định thuế đa phương, từ đó lựa chọn phương án bảo lưu phù hợp để có thể tham gia ký hiệp định thuế đa phương trong thời gian thích hợp để triển khai các giải pháp ngăn chặn BEPS hiệu quả, giúp bảo vệ nguồn thu và cơ sở tính thuế.
Bảng 5.1 Tóm tắt 15 hành động của Dự án BEPS do OECD đề xuất
Hành động | Tóm tắt | Kết quả | |
1 | Nền kinh tế số | Giải quyết các thách thức về thuế trong nền kinh tế số | Báo cáo |
2 | Khoảng trống chính sách thuế | Vô hiệu hóa các hành vi lợi dụng những kẽ hở trong chính sách thuế giữa các quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu hưởng các ưu đãi miễn giảm thuế ở hai hoặc nhiều quốc gia | Sửa đổi quy định trong nước/ sửa đổi hiệp định mẫu |
3 | Công ty nước ngoài có kiểm soát | Xây dựng các quy định hiệu quả nhằm kiểm soát việc thành lập các công ty ở nước ngoài có kiểm soát để chuyển lợi nhuận và lợi dụng thuế suất thấp | Sửa đổi quy định trong nước |
4 | Khấu trừ lãi suất | Hạn chế việc khấu trừ lãi suất và các chi phí tài chính quá mức trong tổng chi phí nhằm giảm thu nhập chịu thuế | Sửa đổi quy định trong nước/ hướng dẫn về định giá chuyển nhượng |
5 | Thông lệ thuế có hại | Hạn chế các thông lệ thuế có hại thông qua việc minh bạch và trao đổi thông tin bắt buộc về các chính sách ưu đãi thuế, gắn với các hoạt động cốt lõi thực sự cần ưu đãi | Rà soát, thống nhất các nguyên tắc và cơ chế ưu đãi |
6 | Lợi dụng hiệp định thuế | Ngăn ngừa các hành vi lợi dụng các ưu đãi trong các hiệp định thuế, bao gồm cả việc tránh nộp thuế ở tất cả các nước | Sửa đổi quy định trong nước/ sửa đổi hiệp định mẫu |
7 | Cơ sở thường trú | Ngăn ngừa việc cố tình tránh hình thành cơ sở thường trú nhằm mục tiêu tránh nộp thuế | Sửa đổi hiệp định mẫu |
8 - 10 | Giá chuyển nhượng | Sử dụng các biện pháp đối chiếu giá thị trường nhằm xác định mức giá chuyển nhượng hợp lý | Hướng dẫn về định giá chuyển nhượng |
11 | Đo lường và kiểm soát BEPS | Thu thập thông tin và số liệu về các hành vi của doanh nghiệp nhằm xác định các hành vi BEPS | Khuyến nghị |
12 | Bắt buộc cung cấp thông tin | Xây dựng các quy định bắt buộc cung cấp thông tin về hoạt động doanh nghiệp | Khuyến nghị |
13 | Lập hồ sơ giá chuyển nhượng | Hướng dẫn các nước lập hồ sơ về giá chuyển nhượng và xây dựng báo cáo thông tin quốc gia chuẩn hóa | Khuyến nghị |
14 | Cơ chế giải quyết tranh chấp | Sửa đổi cơ chế giải quyết tranh chấp để đưa ra các giải pháp hiệu quả hơn, đặc biệt là thủ tục thỏa thuận song phương (MAP) | Sửa đổi mô hình mẫu |
15 | Công cụ đa phương | Xây dựng một công cụ đa phương nhằm sửa đổi đồng thời nhiều hiệp định thuế song phương | Công ước đa phương |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Chính Sách Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp Và Fdi Tại Vn
- Quan Hệ Phi Tuyến Giữa Thuế Suất Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp Và Fdi
- Tổng Hợp Các Kết Quả Nghiên Cứu Về Tổn Thất Thuế Tndn Do Xói Mòn Cơ Sở Thuế Tndn
- Hạn Chế Của Đề Tài Và Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Quan Hệ Phi Tuyến Giữa Thuế Suất Thuế Tndn Và Fdi
- Thuế và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển - 22
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ OECD (2015)
5.2.2 Về thu hút FDI
Nghiên cứu của luận án cho thấy FDI đến từ các quốc gia là các thiên đường thuế, đang trở thành lỗ hổng được các tập đoàn kinh tế lớn lợi dụng để trốn thuế, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD cho các nước đang phát triển. Tổ chức Oxfarm (2017) cũng cho biết các khoản đầu tư FDI vào các nước đang phát triển đều chảy qua ít nhất là một thiên đường thuế. Việc này dẫn đến thu nhập của các khoản đầu tư này chỉ phải đóng khoản thuế rất nhỏ tại các thiên đường thuế trong các quốc gia đang phát triển tiếp tục bị xói mòn cơ sở thuế. Lượng tiền thuế thất thu có thể được dùng để cải thiện đời sống xã hội tại các nước đang phát triển và là nguyên nhân khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn xa giữa các quốc gia. Do đó, các quốc gia đang phát triển nên cân nhắc và xem xét các nguồn vốn FDI đến từ các quốc gia là các thiên đường thuế, không nên nhận FDI từ các nước có chính sách thuế còn nhiều lỗ hổng để hạn chế tối đa tình trạng trốn thuế. Điều này đòi hỏi các quốc gia cần thay đổi tiêu chí chọn lọc nhà đầu tư FDI, không nên thiên về số lượng mà quan trọng đến chất lượng và tìm hiểu nguồn gốc các dòng FDI, đặc biệt xem xét mục đích vốn đầu tư nước ngoài tới từ các thiên đường thuế.
Hiện nay, nhiều quốc gia đang phát triển chưa có cơ sở pháp lý để ràng buộc các doanh nghiệp thành lập các công ty ở thiên đường thuế. Do đó, các quốc gia nên xây dựng và tiến dần đến hoàn thiện các cơ chế pháp lý, các điều kiện về việc các công ty đa quốc gia tại nước sở tại thành lập văn phòng tại thiên đường thuế, hoặc bổ sung phần góp vốn từ các trung tâm tài chính nước ngoài. Vấn đề này đòi hỏi sự minh bạch thông tin giữa các cơ quan thuế của các quốc gia với nhau và sự chủ động đưa ra những giải pháp tăng cường giám sát quản lý với các dự án đến từ các “thiên đường thuế”. Các chính phủ cũng cần tổng kết đánh giá tỷ lệ vốn giải ngân, vốn rút khỏi dự án, số dự án không thực hiện, chậm triển khai và việc chấp hành pháp luật của các dự án FDI đến từ các “thiên đường thuế” để từ đó có các chính sách, giải pháp phù hợp.
Về các vấn đề tồn tại của các công ty đa quốc gia liên quan đến thiên đường thuế, như chuyển giá thông qua các hợp đồng cung ứng hàng hóa và dịch vụ ký với các pháp nhân ở “thiên đường thuế”, lợi nhuận thật được chuyển ra các công ty đăng ký ở “thiên đường thuế”, vẫn là một thách thức đối với hầu hết các quốc gia. Do đó, để thực hiện được các quy định của luật pháp một cách nghiêm túc, vừa không nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư, vừa đảm bảo lợi ích của đất nước thông qua thu ngân sách
nhà nước thì quan trọng nhất là giám sát thông qua một bộ máy công chức có trình độ chuyên nghiệp, có đủ công cụ, đặc biệt là hệ thống thông tin để giám sát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp FDI.
Ngoài ra, đầu tư là lĩnh vực không ngừng thay đổi do sự chuyển dịch liên tục của dòng vốn FDI trong khu vực trên thế giới, cũng như các xu hướng của bên có nhu cầu thu hút FDI. Khả năng của nước sở tại trong việc bảo đảm các diễn biến bên cung phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư và những loại hình đầu tư mới là hết sức quan trọng để duy trì tăng trưởng FDI. Một chiến lược xúc tiến đầu tư mới và cụ thể sẽ cải thiện ưu tiên chính sách, hiệu quả thực hiện và liên tục cải thiện chính sách. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có giá trị gia tăng cao, tìm kiếm thị trường và tìm kiếm hiệu quả có thể sẽ tiếp tục là một nguồn quan trọng để xây dựng năng lực cạnh tranh, đa dạng hoá và tăng trưởng cho các quốc gia đang phát triển. Điều quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào mong muốn thu hút (và duy trì) đầu tư nước ngoài mới là bảo đảm để chính sách đầu tư và bộ máy thể chế về xúc tiến đầu tư có sự gắn kết và hiệu quả, các cơ quan liên quan phải phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt, cần tập trung ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng cao, dịch vụ tài chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng công nghiệp 4.0.
5.2.3 Về chính sách kinh tế vĩ mô
Để thu hút FDI một cách hiệu quả nhất, thực tế cho thấy, chính sách thuế không phải là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư, mà cần cả một hệ thống chính sách tạo môi trường đầu tư đồng bộ và hiện đại. Một hệ thống thuế tốt, minh bạch, hiệu quả và không quá phức tạp, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, các điều kiện để thủ tục và chi phí cho kê khai, nộp thuế phải ở mức thấp nhất có thể... sẽ là điểm được các nhà đầu tư đánh giá cao. Để đạt được điều này, chính sách thuế nhằm mục tiêu thu hút FDI luôn được song hành cùng với các quy định pháp luật và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần vào phát triển kinh tế.
Kết quả luận án cũng cho thấy, bên cạnh chính sách thuế, các yếu tố vĩ mô khác cũng tác động đến FDI tại các quốc gia đang phát triển gồm: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, dân số, lao động, tỷ lệ lạm phát, sự minh bạch của chính phủ, quyền đảm bảo tài sản, độ mở thương mại của các quốc gia… Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cộng với sự tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn và lao động chất lượng thấp, giá rẻ đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia tác động tiêu cực đến FDI. Do đó, đòi hỏi các nước đang phát triển phải tiếp tục thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nângcao chất lượng, đảm bảo tính bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa. Bên cạnh đó, quy mô về dân số và lực lượng lao động tại nhóm quốc gia đang phát triển là lợi thế quan trọng về thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, và chất lượng nguồn nhân lực trong thu hứt FDI. Đối với đội ngũ nhân công lao động trực tiếp cần có các cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong đào tạo nguồn nhân lực theo những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của lao động trong bối cảnh CMCN 4.0 cần chú trọng trang bị các kiến thức và kỹ năng lao động, trong đó chú trọng tính sáng tạo, chủ động trong công việc.
Ngoài ra, thể chế được dự báo vẫn sẽ là một trở ngại cho các quốc gia đang phát triển trong quá trình thu hút FDI, có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư FDI và nâng cao năng lực cạnh tranh. Luận án cũng kết luận các chỉ số về minh bạch, đảm bảo quyền tài sản, hoặc khả năng kiểm soát lạm phát đều tác động đến FDI. Do đó, Chính phủ các nước phải tiếp tục hoàn thiện về tính minh bạch, tính mở của thể chế, hướng đến chuẩn mực toàn cầu về thể chế trong thu hút FDI. Cụ thể: Việc hoàn thiện thể chế trong quản lý FDI hướng tới chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh CMCN 4.0 cần tiến hành theo các hướng: tăng cường ứng dụng các thành tựu CMCN
4.0 trong quản lý, đặc biệt là các ứng dụng về quản lý dữ liệu, không gian nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhờ tiết kiệm thời gian, các chi phí tiêu cực phát sinh; cập nhật kịp thời các thay đổi về công nghệ ở các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động FDI (ví dụ tác động của công nghệ sản xuất, kinh doanh mới đến môi trường tự nhiên, văn hóa, con người…) nhằm có các phản ứng phù hợp theo nguyên tắc chỉ can thiệp bằng chính sách, quản lý hành chính khi các hoạt động đó phương hại đến lợi ích của cộng đồng và quốc gia. Như vậy, các quốc gia cần hướng tới tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, minh
bạch và ổn định, bảo đảm sự tiếp cận dễ dàng, bình đẳng với chi phí hợp lý về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, điều kiện giao thông, kết cấu hạ tầng... góp phần thu hút đầu tư, khuyến khích kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tích lũy, trên cơ sở đó có thêm nguồn lực để tăng đầu tư vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng.
5.2.4 Khuyến nghị về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và thu hút FDI tại Việt Nam
Việt Nam đang thực hiện chiến lược cải cách thuế đến năm 2030, với mục tiêu tổng quát về cải cách chính sách thuế là tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế gắn với cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong pháp luật thuế và chính sách miễn, giảm, bảo đảm tính trung lập của thuế. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện sửa đổi chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế không còn phù hợp với yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập quốc tế; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với chính sách miễn, giảm thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế để áp dụng ổn định trong trung và dài hạn; thực hiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đồng thời, chuyển trọng điểm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư vào những ngành, nghề mũi nhọn và những địa bàn cần khuyến khích đầu tư. Chính sách thuế TNDN đối với FDI cũng hướng đến giải pháp mở rộng cơ sở thuế phù hợp bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế; thực hiện các tiêu chuẩn phòng, chống chuyển giá, chống xói mòn nguồn thu theo thông lệ quốc tế.
Trên cơ sở những kết quả phân tích về mối quan hệ giữa thuế và FDI của luận án, và những mục tiêu trong chiến lược cải cách thuế TNDN nói chung, chính sách thuế TNDN đối với FDI nói riêng, để nâng cao vị thế cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và cả các nước đang phát triển khác cần thực thi đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các chính sách về thuế TNDN như sau:
• Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý về thuế TNDN đối với vấn đề dịch chuyển lợi nhuận của FDI nhăm mục đích trốn thuế, tránh thuế (chống chuyển giá). Những nội dung cụ thể cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá là: (i) Cần bổ sung một điều luật về chống chuyển giá vào Luật Quản lý thuế, về lâu dài nên ban hành Luật Chống chuyển giá - đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động chống chuyển