Họ thường là những người nghề nghiệp cơ bản, có kinh tế, tầm từ 35 đến 45 tuổi. Nếu đã gặp khách hàng nữ thì hầu như thường là từ a đến z, làm tất. Quan hệ với người nữ thì nó dễ hơn, nó không khó như nam, quan hệ với nam khó ở cái mình phải cố gắng gần như mình đóng kịch, nhưng với nữ thì tự nhiên như vốn dĩ mình có, cứ thể mình làm, nó thuộc về bản năng.” (PVS - LO - QT 08/2009).
Bảng 3.5. Các hình thức QHTD và sử dụng BCS với các loại bạn tình trong lần đầu tiên
Có sử dụng BCS | ||
Số lượng | Tỷ lệ (%) | |
Với bạn tình nữ | ||
QHTD qua đường miệng (n=159) | 133 | 83,6 |
QHTD qua đường âm đạo (n=209) | 96 | 45,9 |
QHTD qua đường hậu môn (n=41) | 21 | 51,2 |
Với bạn tình nam không vì mục đích trao đổi | ||
QHTD qua đường miệng (n=81) | 10 | 12,3 |
QHTD qua đường hậu môn (n=77) | 32 | 41,6 |
Có thể bạn quan tâm!
- Khung Can Thiệp Dự Phòng Hiv Và Stis Cho Nhóm Ntdđg/nbdđg
- Quy Trình Thu Thập Số Liệu Tại Cơ Sở Nghiên Cứu
- Các Đặc Trưng Nhân Khẩu Cơ Bản Của Nhóm Đối Tượng Nghiên Cứu
- Đặc Điểm Của Khách Hàng Nam Trong Lần Bán Dâm Đầu Tiên Và Gần Đây Nhất
- Tỷ Lệ Hiện Nhiễm Hiv Và Một Số Sti Qua Kết Quả Xét Nghiệm Và Qua Đối Tượng Tự Khai Báo
- Mối Liên Quan Giữa Hành Vi Sử Dụng Chất Gây Nghiện Và Nhiễm Ít Nhất 1 Sti
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Kết quả bảng 3.5 cho thấy:
- Trong các đối tượng đã QHTD qua đường miệng, đường âm đạo, đường hậu môn với bạn tình nữ, phần lớn (83,6%) có sử dụng BCS khi QHTD qua đường miệng, 45,9% có sử dụng BCS khi QHTD qua đường âm đạo, 51,2% có sử dụng BCS khi QHTD qua đường hậu môn.
- Trong các đối tượng đã QHTD qua đường miệng và đường hậu môn với bạn tình nam không vì mục đích trao đổi, chỉ có 12,3% có sử dụng BCS khi QHTD qua đường miệng, 41,6% đối tượng sử dụng BCS khi QHTD qua đường hậu môn.
QHTD đườ ng miệ ng có sử dụ ng BCS
QHTD đườ ng hậ u môn có sử dụ ng BCS
30,3
28,6
7,0
5,4
% 100
80
60
40
20
0
Khá ch hà ng Việ t Nam Khá ch hà ng nướ c ngoà i
Biểu đồ 3.2. Sử dụng BCS trong lần QHTD gần đây nhất với Khách hàng người Việt Nam và nước ngoài.
Kết quả biểu đồ 3.2 cho thấy: Trong lần bán dâm gần đây nhất, tỷ lệ rất thấp (7,0% và 5,4%) đối tượng đã QHTD qua đường miệng với khách hàng nam người Việt Nam và khách nước ngoài có sử dụng BCS, khoảng 1/3 đối tượng đã QHTD qua đường hậu môn có sử dụng BCS.
Kết quả điều tra xã hội học định tính cho thấy:
Nhóm NBDĐG có các hình thức quan hệ tình dục đa dạng gồm: QHTD
bằng tay, qua đường miệng - sinh dục và qua đường hậu môn - sinh dục.
Tỷ lệ nhóm NBDĐG có QHTD qua đường hậu môn cũng tương đối cao và trong công việc bán dâm, hình thức QHTD hậu môn - sinh dục bao giờ cũng được trả tiền cao hơn.
“Em không nhớ chính xác đã QHTD qua đường hậu môn bao nhiêu lần nhưng khoảng 60% khách, 100 thì khoảng 60 có quan hệ hậu môn” (PVS - CU 8/2009).
“Trong lần QHTD hậu môn “nhận”không dùng BCS này, H đã được ông khách trả 2 triệu, trong khi những lần trước, dùng miệng kích thích cho khách chỉ được 200.000đ” (NKTĐ HO 3 - 7/5/2009).
Trong hình thức QHTD qua đường hậu môn - sinh dục, những người nhận mình là đồng tính nam cũng có sự phân loại thành những người vai trò của nhóm “Bot” hay “Top” để thể hiện vị trí trong hình thức quan hệ tình dục của mình. Điểm lý thú là việc phân loại vai trò Bot hay Top lại thể hiện đặc điểm nữ tính như người đóng vai trò là Bot thì họ ở thế bị động và giữ vai trò là “vợ” còn người nhận mình là Top thì giữ vai trò là “chồng”:
“Trong quan hệ tình dục của Gay, họ có thể dùng khái niệm top và bot để nói vị trí trong quan hệ, chia ra 2 nhóm: nhóm thường đóng vai trò nữ, nằm dưới và bị “đâm” thì họ gọi là “bot - bottom”, nhóm chủ động trong tình dục, đóng vai trò nam, được “đâm” và nằm trên là “top”. Từ cách phân chia này, H (một trai bán dâm tự nhận mình đồng tính) cho biết “thích vai trò bot hơn” (NKTĐ HO 30/3-30/4/2009).
Bảng 3.6. Số lượng khách hàng nam và số lần QHTD trung bình
trong 30 ngày qua
Số lượng | Tỷ lệ % | |
Số khách hàng nam trung bình (n=217) 9,5 (khoảng biến thiên 1 – 90) | ||
Số khách hàng nam | ||
≥10 khách | 166 | 76,5% |
<10 khách | 51 | 23,5% |
Số lần QHTD trung bình trong 30 ngày qua (lần) (n=250) 11,7 ± 1,7 (khoảng biến thiên 1-90) | ||
Số lần QHTD | ||
≥ 10 lần | 57 | 22,8 |
< 10 lần | 193 | 77,2 |
Kết quả bảng 3.6 cho thấy:
- Trung bình mỗi đối tượng có 9,5 khách mua dâm trong 30 ngày qua, cá biệt có những đối tượng có tới 90 khách mua dâm.
- Đa số đối tượng có từ 10 khách hàng nam trở lên (76,5%)
- Số lần QHTD trung bình trong 30 ngày qua tương đối nhiều: 11,7 lần.
- Chủ yếu đối tượng có số lần QHTD trong 30 ngày qua dưới 10 lần (77,2%).
Bảng 3.7. Số lượng khách hàng nam qua các hình thức QHTD
trong 30 ngày qua
Trung bình | Khoảng biến thiên | |
Số khách hàng có QHTD qua đường miệng (n=207) | 9,2 | (1 – 90) |
Số khách trung bình trong QHTD qua đường hậu môn cho (n=131) | 3,5 | (1 – 30) |
Số khách trung bình trong QHTD qua đường hậu môn nhận (n=110) | 3,9 | (1 – 30) |
Kết quả bảng 3.7 cho thấy: Số khách mua dâm trung bình trong QHTD đường miệng là 9,2 khách, số khách mua dâm trung bình trong QHTD đường hậu môn cho là 3,5 khách và nhận là 3,9 khách.
Bảng 3.8. Đặc điểm hoạt động bán dâm
Số lượng | Tỷ lệ (%) | |
Tuổi trung bình lần đầu có QHTD bán dâm nam 20 ± 3,1 (khoảng biến thiên 10 - 34) | ||
Nhóm tuổi lần đầu có QHTD bán dâm nam (n=250) | ||
>19 tuổi | 64 | 25,6 |
20 - 24 tuổi | 132 | 52,8 |
≥ 25 tuổi | 54 | 21,6 |
Thời gian bán dâm (n=250) | ||
<1 năm | 84 | 33,6 |
Từ 1-<5 năm | 115 | 54,0 |
≥5 năm | 51 | 12,4 |
Các lý do đối tượng có QHTD bán dâm nam (n=250) | ||
Nơi ở | 78 | 31,2 |
Việc làm | 30 | 12,0 |
Quà tặng | 139 | 55,6 |
Thức ăn | 145 | 58,0 |
Ma túy | 46 | 18,4 |
Tiền mặt | 217 | 86,8 |
Cách thức gặp gỡ khách hàng nam trong 30 ngày qua (n=217) | ||
Qua điện thoại/internet | 63 | 29,0 |
Qua người khác giới thiệu (má mì, bạn bè...) | 40 | 18,4 |
Tại các địa điểm công cộng | 51 | 23,5 |
Tại các địa điểm dịch vụ | 63 | 29,0 |
Kết quả bảng 3.8 cho thấy:
- Đa số (52,8%) đối tượng bán dâm nam lần đầu ở nhóm tuổi 20 - 24.
Khoảng 1/4 đối tượng bắt đầu bán dâm nam ở độ tuổi dưới 19 (25,6%).
- Chủ yếu các đối tượng có thâm niên bán dâm từ 1 năm đến dưới 5
năm (54,0%).
- Phần lớn (86,8%) các đối tượng bán dâm nam vì tiền, sau đó là các lý do khác như vì thức ăn (58,0%), quà tặng (55,6%), nơi ở (31,2%), các lý do còn lại là vì ma túy/rượu (18,4%) và vì việc làm (12,0%).
- Trong 30 ngày qua khoảng 1/3 đối tượng nghiên cứu gặp gỡ khách hàng nam tại các địa điểm dịch vụ, một tỷ lệ tương tự gặp qua điện thoại/internet, 23,5% gặp tại các địa điểm công công và 18,4% qua người khác giới thiệu.
Kết quả điều tra xã hội học định tính cho thấy:
- Các địa điểm nơi nhóm NBDĐG gặp gỡ khách hàng bao gồm 3 loại
hình là địa điểm công cộng, địa điểm dịch vụ và các không gian mạng.
+ Các địa điểm công cộng: Các địa điểm công cộng như công viên, vườn hoa, hồ công cộng là những “không gian mở” gắn bó trực tiếp với dân cư, nơi có rất nhiều con người thuộc các thành phần khác nhau với nhiều hoạt động như tổ chức sự kiện, vui chơi, giải trí đến các hoạt động mưu sinh như bán nước, xe ôm và có cả các công việc bất hợp pháp…Nhóm NBDĐG chỉ là một phần hoạt động nhỏ tại các địa điểm này và thường lựa chọn những khoảng không gian kín đáo ít người xuất hiện để gặp gỡ, tìm kiếm bạn tình. Cũng có những địa điểm công cộng tự phát hình thành như con đường vừa được mở rộng, các bãi đất trống trong các khu xây dựng (NKTĐ HO 10 - 29/1/2009).
+ Các địa điểm dịch vụ: Các địa điểm dịch vụ này nằm xen lẫn trong những khu dân cư, là những ngôi nhà kinh doanh cung cấp các dịch vụ như tẩm quất hay phòng tắm hơi hướng đến khách hàng là nam giới trong đó có cả những người đàn ông và những người đồng tính, thỉnh thoảng cũng có khách hàng nữ nhưng con số này không nhiều.
Tại các địa điểm cung cấp dịch vụ tẩm quất, ban ngày thì những con phố này khá tĩnh lặng nhưng khi đêm về thì một không khí ồn ào, náo nhiệt rất khó diễn tả với các sắc màu ánh sáng của những tấm biển “Tẩm quất Nam” và những âm thanh của các bạn nhân viên gọi để chào mời khách “quất đi”.
Phần lớn các nhân viên dưới 30 tuổi và một số trung tuổi (35 - 40 tuổi), họ đến từ các tỉnh lân cận Hà Nội như Bắc Giang, Thanh Hóa….Cũng có một số là sinh viên nhưng con số này không nhiều. Hầu hết các nhân viên là trai thẳng (NKTĐ HO 5 - 10/3/2009).
Nếu như các quán tẩm quất là những địa điểm dịch vụ có vẻ như công khai (phô trương và quảng cáo) thì một hình thức dịch vụ khác cũng mới xuất hiện trong khoảng thời gian này nhưng rất kín đáo đó là các phòng tắm hơi.
“ Mới xuất hiện nhưng được yêu chuộng do thoải mái: có phòng riêng và nhiều thời gian hơn. Các điểm này giống như thế giới riêng của Gay, tất cả khách đều là NTDĐG nên không ai bị lạc lõng hoặc cảm thấy ngại ngùng. Hiện ở Hà Nội mới có 2 cơ sở. Gay rất là thích vì đến đây được thoải mái tất cả các nhu cầu, gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ, “yêu đương”. Đa số Gay là bóng kín, đến điểm xông hơi rồi mới làm quen với bạn tình, rồi 2 người vào cabin riêng hoặc từ đây rủ nhau đi nhà nghỉ” (PVS - DU 12/2/2009).
Một loại hình kín đáo hơn nữa và cũng không phổ biến là nhà nghỉ có nhân viên nam phục vụ và chỉ hướng đến khách hàng là những người trong giới (PVS - HU 8/2009).
+ Các không gian ảo (internet…): Trên internet có những trang web dành riêng cho những người trong giới và thông qua không gian mạng họ có thể hẹn hò nhau gặp mặt. Cách thức gặp nhau như thế này có vẻ như khá phù hợp với những người khách hàng không thích lộ diện bản thân.
“Gần đây “chát” cũng là một hình thức mà nhóm đồng tính dùng để liên lạc với nhau và tìm bạn. Ví dụ website lập riêng cho dân gay http://tinhyeutraiviet.com …” (NKTD PH 22/2 - 30/2/2009).
Trong mỗi loại hình không gian nơi mà có sự xuất hiện của nhóm NBDĐG đều có những đặc điểm riêng biệt và điều này liên quan đến cách thức tiếp cận với những đối tượng này cũng phải khác nhau phù hợp với mỗi loại hình địa điểm.
- Tính di biến động của nhóm NBDĐG.
Tính di biến động là sự thay đổi việc xuất hiện của các nhóm NTDĐG/NBDĐG tại các địa điểm. Các yếu tố ảnh hưởng liên quan đến vấn đề pháp luật, vấn đề thời tiết. Đặc biệt các sự kiện về chính trị và các ngày lễ trọng đại như ngày tết, ngày 2/9, ngày 30/4 và 1/5... thì ở các địa điểm này rất vắng vì những ngày này tại các địa điểm công cộng hay diễn ra các sự kiện cộng đồng như biểu diễn văn nghệ, tổ chức các hoạt động kỷ niệm có sự xuất hiện của lãnh đạo và có nhiều quan khách đến tham dự nên để đảm bảo an ninh thì việc bán hàng, tụ tập, ngủ đêm tại các địa điểm công cộng được kiểm tra và quản lý gắt gao hơn so với trước.
”Mấy ngày trước ở hồ xảy ra một vụ ẩu đả nghiêm trọng giữa hai nhóm, có người bị chém nhiều nhát và bị thương nặng. Hiện công an đang đi điều tra và rất nhiều người thường hay ra hồ bây giờ đang trốn chui trốn nhủi, trong đó có anh H, liên quan gì đó đến cả nhóm anh D, anh H nhổn…. Do có vụ đó nên giờ ở hồ rất ít người ra” (NKTĐ HA 25/4 - 30/4/2009).
Đồng thời, sự xuất hiện địa điểm mới cũng ảnh hưởng đến số lượng NTDĐG/NBDĐG của các địa điểm. Trong thời gian tiến hành nghiên cứu, TL (vườn hoa nằm gần trường đại học) là một trong số những địa bàn trước đây nổi tiếng với sự xuất hiện của nhiều NTDĐG đến để mua dâm với các bạn trẻ trong đó có cả các nam sinh viên, tuy nhiên trong thời gian gần đây thì số lượng NTDĐG/NBDĐG ở đây giảm hẳn và lý do tập là có sự xuất hiện của một địa điểm công cộng mới kín đáo hơn và ít người biết hơn.
“Hiện giờ nhiều đồng cô di chuyển xuống khu vực mới là khu vực Vườn X vì ở đó kín đáo, không có nhiều người qua lại, họ tụ tập chơi với nhau rồi thậm chí thoả mãn nhu cầu tình dục ngay tại đó mà không cần phải đi nhà nghỉ. Do đó, tại địa điểm TL ít khách cho nam bán dâm” (NKTĐ NG tuần 1 tháng 04/2009).