Định Hướng Và Một Số Giải Pháp Thúc Đẩy Thu Hút Fdi Từ Asean Vào Các Ngành Dịch Vụ Tại Việt Nam


CHƯƠNG 5: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THU HÚT FDI TỪ ASEAN VÀO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM

TRONG BỐI CẢNH TRIỂN KHAI CAM KẾT HỘI NHẬP AEC


5.1. Định hướng thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam

Việt Nam cần có quan điểm và định hướng chính sách phù hợp trong hoạt động thu hút FDI từ ASEAN nói chung và trong ngành dịch vụ nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh triển khai các liên kết kinh tế quốc tế. Các nhà đầu tư ASEAN là nhóm đối tác có mối quan hệ không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị và xã hội đối với Việt Nam.

Nghị Quyết 50 của Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành tháng 08/2019 đã tổng kết những hạn chế trong hoạt động thu hút FDI của Việt Nam và đưa ra quan điểm chỉ đạo, đề xuất nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Mặc dù không có định hướng cụ thể với thu hút FDI vào ngành dịch vụ nhưng Nghị quyết cũng chỉ đạo thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, hiệu quả, chủ trọng tiêu chí bảo vệ môi trường, có giá trị gia tăng cao – đây là một chủ trương có liên quan tới định hướng thu hút FDI vào ngành dịch vụ tại Việt Nam trong thời gian tới. Kết quả phỏng vấn chuyên gia cũng khẳng định FDI trong ngành công nghiệp hiện nay của Việt Nam chủ yếu nằm ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, FDI vào ngành dịch vụ mang lại giá trị gia tăng cao hơn, hạn chế gây ô nhiễm môi trường sẽ là ưu tiên thu hút trong thời gian tới.

Văn kiện Đại hội Đảng XIII cũng đã nhấn mạnh: “Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao”. Văn kiện cũng nêu rõ một số loại dịch vụ cần tập trung ưu tiên phát triển, như du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ - thông tin, vận tải, logistics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... ; hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao, dịch vụ thương mại... ; tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Trong đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài “là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong thu hút vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu”, “ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển xã hội” (Trích Văn kiện Đại hội XIII) và sẽ tiếp tục là nguồn vốn quan trọng phát triển các ngành dịch vụ của Việt Nam theo hướng hiện đại hoá. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định “6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược” để


hoàn thành các mục tiêu đề ra trong nhiệm kỳ đại hội liên quan đến nâng cao chất lượng của hệ thống thể chế chính trị, kiểm soát dịch bệnh giúp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật – cơ chế - chính sách, phát triển nguồn nhân lực và hệ thống cơ sở hạ tầng (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.

Ngày 01/04/2021, Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định 531/QĐ-TTg – Phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo đó khẳng định phát triển dịch vụ trở thành khu vực chủ chốt, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, ngang bằng với nhóm các quốc gia phát triển trong ASEAN-4, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Việt Nam định hướng tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh như du lịch, logistics và vận tải, tài chính – ngân hàng, y tế, giáo dục, công nghệ thông tin thông qua huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước.

Dựa trên các quan điểm và định hướng phát triển của Đảng và Chính phủ, cũng như đặc điểm của ngành dịch vụ Việt Nam, cũng như thực tiễn thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ trong bối cảnh AEC, luận án đề xuất việc mở rộng quy mô vốn FDI vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong thời gian tới cần dựa trên các định hướng chiến lược sau:

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - 18

(1) Mở rộng trọng tâm ưu tiên thu hút FDI vào các ngành dịch vụ, xác định dịch vụ là ngành cần chủ động thu hút FDI và là ngành được ưu tiên trước mắt trong thu hút FDI; coi việc thu hút FDI vào các ngành dịch vụ là phương thức đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ, gắn chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững.

Thu hút FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của vùng miền và cả nước.

Gắn chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ với chuyển dịch cơ cấu lao động, bảo đảm cho ngành dịch vụ tạo ra ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là việc làm có giá trị gia tăng cao, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.

Nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của ngành dịch vụ thông qua thu hút FDI. Thu hút FDI nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành dịch vụ thông qua chất lượng sản phẩm dịch vụ một cách đồng bộ và tổng thể.

(2) Muốn thu hút được các nguồn FDI có chất lượng cao, cần cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút dòng vốn FDI theo hướng bền vững.


Thay vì cạnh tranh nhau trong cuộc đua xuống đáy bằng cách giảm thuế suất và liên tục đưa ra những ưu đãi thuế lớn, cần chú trọng vào các yếu tố chủ chốt trong việc quyết định đầu tư FDI là môi trường kinh doanh.

Phát triển kinh tế xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập nhằm góp phần mở rộng quy mô, ổn định và tăng sức hấp dẫn cho thị trường nội địa.

Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đầu tư trong các ngành dịch vụ.

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đảm bảo nguồn lực cho phát triển trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

Xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm về giao thông, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia.

Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và minh bạch hoá môi trường đầu tư.

(3) Thu hút FDI từ ASEAN nhằm phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhưng có trọng tâm trọng điểm. Ưu tiên tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao.

Thu hút FDI nhằm phát triển đa dạng các ngành dịch vụ bao gồm cả dịch vụ truyền thống và dịch vụ hiện đại, có giá trị gia tăng cao. Đặt trọng tâm thu hút FDI vào phát triển các ngành dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam.

Việc thu hút FDI cần chú trọng lựa chọn một số ngành và lĩnh vực ưu tiên để chủ động xúc tiến đầu tư; tránh thu hút dàn trải, đảm bảo nguyên tắc đem lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế. Cần hướng FDI vào những ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế của Việt Nam cũng như là lợi thế của các nhà đầu tư ASEAN, vị trí địa lý đặc thù của Việt Nam so với các nước ASEAN nhằm hướng tới lựa chọn các ngành thu hút có trọng điểm và hiệu quả.

Đa dạng hoá để tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong mỗi dự án cụ thể, từ đó lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực; đồng thời giúp tránh được sự phụ thuộc vào luồng vốn từ một vài trung tâm, tránh được rủi ro và tạo sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư.


(4) Thu hút FDI nhằm phát triển thị trường dịch vụ, bảo đảm chủ động hội nhập quốc tế về dịch vụ cũng như của toàn bộ nền kinh tế.

Hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài bên cạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế, đẩy mạnh đầu tư.

Việc thu hút FDI có chọn lọc nhưng không vi phạm các cam kết về hội nhập trong AEC và các hiệp định khác mà Việt Nam kí kết. Việt Nam cần hoạch định các chính sách thu hút FDI hướng đến mục tiêu thúc đẩy hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

5.2. Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh triển khai các cam kết AEC

Các thành tựu trong thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với một thách thức đặc thù: số lượng FDI thu hút có xu hướng tăng, nhưng hiệu quả đạt chưa như kỳ vọng: cơ cấu các dự án không đồng đều, quy mô các dự án còn nhỏ, đối tác đầu tư chỉ tập trung chủ yếu vào một số quốc gia trong ASEAN. Thực tiễn chính sách còn nhiều hạn chế, trong khi đó còn nhiều vấn đề cần đặt ra với các yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động thu hút. Dựa trên tình hình thực tế thu hút FDI từ ASEAN, đặc biệt là sau AEC, các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút dòng vốn như đã nhận định trong Chương 4, cũng như định hướng thu hút đầu tư trong cách ngành dịch vụ của Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết các hạn chế nêu trên.

5.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam

Luận án đã nhận định ổn định kinh tế vĩ mô, tiềm năng và quy mô thị trường, phát triển thị trường tài chính, nguồn nhân lực, chất lượng thể chế - chính trị, các chính sách liên quan đến FDI và cả cơ sở hạ tầng là những nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam. Bên cạnh xu thế phát triển kinh tế chung, tác giả đề xuất một số giải pháp duy trì và cải thiện các yếu tố trên, bao gồm:

5.2.1.1. Ổn định kinh tế vĩ mô

Sức hấp dẫn của một nền kinh tế ổn định giúp Việt Nam tiếp tục duy trì sức hút đối với FDI. Đây là một lợi thế cạnh tranh nổi bật của Việt Nam so với các quốc gia nội khối AEC trong thu hút FDI. Tuy nhiên, giá hàng hóa toàn cầu đang tăng cao trong do ảnh hưởng của dịch bệnh, từ giá các loại năng lượng như dầu mỏ, kim loại


như đồng, nông sản như cà phê hay đường, trong bối cảnh các Chính phủ bơm tiền, duy trì lãi suất ở mức thấp kỷ lục và các nhà đầu tư tìm chỗ trú ẩn do lo ngại đồng tiền mất giá…là nguy cơ lạm phát tăng cao. Vì vậy, việc tiếp tục giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là thách thức quan trọng của Việt Nam để thu hút FDI bền vững.

Phân tích cũng cho thấy khi tỷ giá thay đổi theo hướng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác động gia tăng luồn vốn FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam.Tuy nhiên, việc định giá thấp đồng tiên có thể dẫn đến rủi ro Việt Nam bị các quốc gia khác cho rằng đang “thao túng tiền tệ” tăng lên. Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên thế giới và trong khu vực, kéo theo những biến động khó lường trên thị trường tài chính thế giới, áp lực lên tỷ giá tương đối mạnh, đặc biệt là áp lực do lạm phát. Vì vậy, các nhà quản lý cần điều tiết tỷ giá và chính sách tỷ giá thận trọng theo những mục tiêu kinh tế - xã hội đã định.

Luận án đề xuất một số những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô sau:

Thứ nhất, việc điều hành kinh tế vĩ mô đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả, linh hoạt giữa các công cụ chính sách, cả về mức độ, liều lượng, thời gian thực hiện. Ngân hàng Nhà nước cần xác định rõ từng loại chính sách, sự phối hợp và mức độ ưu tiên hợp lý giữa các chính sách trong từng thời kỳ, từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Việc tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng đòi hỏi điều hành chính sách tiền tệ phải hết sức linh hoạt nhưng thận trọng, trung hòa ngoại tệ và xử lý nợ xấu, đảm bảo chất lượng tín dụng. Việt Nam cần phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất, giữ ổn định giá trị đồng tiền, phù hợp với diễn biến lạm phát.

Thứ hai, phải theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để đưa ra những đối sách, giải pháp kịp thời, phù hợp, sát thực tế đối với những vấn đề thực tiễn đặt ra. Nền kinh tế Việt Nam đang đặt ra những yêu cầu lớn về đổi mới, cải cách cơ chế, chính sách về tài chính, tiền tệ, thương mại, đầu tư… khi các quốc gia, đối tác lớn thay đổi định hướng chính sách hướng đến bảo vệ sản xuất nội địa và thu hút đầu tư. Đặc biệt, trong điều kiện độ mở nền kinh tế cao, rủi ro về kinh tế, chính trị, thiên tai và dịch bệnh phức tạp, thì yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô càng quan trọng. Bộ Tài chính cần tiếp tục triển khai các cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, phục hồi sản xuất, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh xã hội và các cân đối lớn về tài chính – ngân sách Nhà nước; tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công để phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế; kiên quyết cắt giảm các dự án không có khả năng giải ngân để điều chuyển cho các dự án có nhu cầu và khả năng giải ngân cao…


5.2.1.2. Phát triển thị trường tài chính

Măc dù thị trường tài chính Việt Nam những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng thị trường tài chính

– công cụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài – còn yếu kém so với các quốc gia ASEAN khác. Thị trường chứng khoán vẫn tồn tại những yếu tố chưa thực sự bền vững; quy mô thị trường bảo hiểm ở mức thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực, chưa có các cơ sở quản lý và giám sát trên cơ sở rủi ro; dịch vụ kế toán kiểm toán phụ thuộc vào nước ngoài; thiếu các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực…(Phạm Văn Hiếu, 2019). Vì vậy, việc tiếp tục phát triển thị trường tài chính cũng là điều kiện quan trọng giúp thu hút FDI vào ngành dịch vụ từ khối ASEAN vào Việt Nam.

Thứ nhất, Nhà nước cần đa dạng hoá các công cụ và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ, các thành viên tham gia thị trường tiền tệ, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng về thông tin và thanh toán thông qua áp dụng công nghệ số và công nghệ tài chính.

Thứ hai, cần hình thành và phát triển đồng bộ cơ cấu của thị trường vốn, trong đó đặc biệt tập trung phát triển thị trường chứng khoán. Cấu trúc thị trường vốn còn chưa đa dạng, thanh khoản chưa đủ lớn. Bên cạnh đó, các cơ chế và công cụ phòng vệ rủi ro trên thị trường chỉ mới bắt đầu được hình thành. Vì vậy, Chính phủ cần mở rộng thị trường theo hướng cho phép các doanh nghiệp và tổ chức dễ dàng tiếp cận thị trường hơn thông qua loại bỏ các điều kiện thị trường, áp dụng các cơ chế đăng ký phát hành dựa trên chế độ công bố thông tin đầy đủ theo thông lệ quốc tế, giảm bớt các điều tiện và thủ tục hành chính trong việc tiếp cận và huy động vốn trên thị trường.

Thứ ba, tập trung phát triển cơ sở nhà đầu tư có tổ chức, tiếp tục thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Chính phủ cần phấn đấu cải cách hệ thống thể chế; Bộ Tài chính tham mưu giải pháp kỹ thuật để đáp ứng các tiêu chí xếp hạng thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý quy định hướng dẫn việc triển khai các loại hình quỹ đầu tư chuyên biệt, thúc đẩy đa dạng hoá cấu trục sản phẩm trên thị trường.

Thứ tư, cần nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính, đảm bảo hoạt động ổn định của khu vực tài chính quốc gia. Chính phủ - cụ thể là các đơn vị như Bộ phận thực thi của cơ quan quản lý thực hiện giám sát thị trường cần thiết lập các cơ chế giám sát, cảnh bảo sớm, nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính; tăng cường phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý và giám sát tài chính để cùng nhận diện và đánh giá các rủi ro của thị trường cài chính. Đồng thời cần


nghiên cứu và cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế, theo các giải pháp mà nhiều quốc gia phát triển đang triển khai, nhằm tạo điều kiện đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa hệ thống tín dụng và thị trường vốn, đảm bảo bình đẳng trong việc sử dụng nguồn tài chính huy động từ thị trường tài chính và bình đẳng thu nhập giữa nhà đầu tư và người gửi tiết kiệm.

5.2.1.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng tương đối cao và chi phí thấp trong khu vực là một trong những lợi thế quan trọng của Việt Nam trong thu hút FDI nói chung và FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ nói riêng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế: mặc dù tổng số lượng lao động có qua đào tạo cao so với nhiều nước trong khu vực nhưng trên thực tế, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ này chỉ chiếm hơn 18% tổng số lao động của Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến năng suất lao động và làm giá trị nguồn nhân lực Việt Nam trên thị trường lao động không cao (so với một số quốc gia ASEAN, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều – thấp hơn năng suất lao động của Thái Lan và Malaysia 6,4 lần, và của Philippines 3,4 lần) (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2014). Bên cạnh đó, xét riêng nhóm lao động có bằng cấp dễ nhận thấy, sự gia tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo thời gian qua có đến 40% là do sự gia tăng của lao động có trình độ đại học trở lên. Trong khi đó, theo kinh nghiệm quốc tế, tỷ lệ lao động có trình độ bậc trung và sơ cấp phải là nhóm có tỷ lệ cao nhất. Việt Nam đang thiếu trầm trọng đội ngũ lao động chuyên môn kỹ thuật có trình độ trung cấp và sơ cấp, trong khi thừa một lượng lớn lao động trình độ cao (từ cao đẳng trở lên).

Ngoài ra, lao động có bằng cấp chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển, bằng cấp được đào tạo chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế nên đội ngũ này đang có nguy cơ mất dần lợi thế cạnh tranh. Trình độ phát triển tiếng Anh và công nghệ thông tin tại Việt Nam mặc dù cao nhưng nếu so sánh với Singapore, Philippines hay Thái Lan thì đây không phải là lợi thế của Việt Nam – chưa kể tới chênh lệch giữa các địa phương và các vùng còn khá lớn. Kỹ năng mềm của người lao động Việt Nam còn hạn chế do phương pháp đào tạo chưa phù hợp và đáp ứng được được nhu cầu của người sử dụng lao động. Đặc biệt, lao động Việt Nam không có thế mạnh trong 08 ngành hội nhập theo cam kết của AEC (bao gồm bác sĩ, hộ lý, kỹ sư, nha sĩ, kiến trúc sư, kế toán viên, giám sát viên và du lịch) dẫn tới khó cạnh tranh trong khu vực.

ASEAN cũng đã xây dựng Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF) – đây là cơ sở dẫn chiếu tự nguyện cho các quốc gia thành viên ASEAN nhằm hỗ trợ cho thoả thuận công nhận và xúc tiến Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân. Việc gia nhập AEC tạo ra một áp lức đối với các nước thành viên trong việc hoàn thiện thể chế, điều chỉnh các chính sách và quy định để thích nghi và đáp ứng các tiêu chuẩn


về lao động trong ASEAN. Theo đó, một số giải pháp bao gồm từ phía Chính phủ bao gồm:

- Đổi mới chương trình giáo dục: Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần sớm thực thi AQRF làm cơ sở để xây dựng Khung tham chiếu trình độ Việt Nam và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với tiêu chuẩn trong AEC. Các cơ sở đào tạo cần chú trọng tới khung tham chiếu này để nắm bắt các quy định về kỹ năng tay nghề, bằng cấp ở từng quốc gia khi áp dụng cho lao động trong khu vực, nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực có thể cạnh tranh với các quốc gia khác trong ASEAN. Tiếp tục công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo dựa trên tiêu chuẩn kỹ năng ASEAN, nâng cao vai trò và hàm lượng thực hành, cũng như các kỹ năng nghề nghiệp trong chương trình đào tạo. Đặc biệt các cơ sở đào tạo trình độ cao như các trường nghề, trường cao đẳng và đại học, giáo dục chuyên nghiệp…cần đáp ứng tiêu chuẩn nhân lực của AQRF. Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng cường các hoạt động giáo dục kỹ năng cho lao động. Đưa lao động Việt Nam có thể tham gia các cuộc thi tay nghề ASEAN cọ sát, tiếp cận và học hỏi trình độ kỹ năng tay nghề của khu vực, đồng thời tham gia sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI.

- Nâng cao khả năng giao tiếp tiếng Anh cho người lao động. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo Tiếng Anh cho lao động. Việt Nam có thể học hỏi mô hình giáo dục của Singapore và Philippines – đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai chính thức học tập và giảng dạy ở các cấp phổ thông và đại học, cũng như ứng dụng rộng rãi trong đời sống để đáp ứng yêu cầu trình độ ngoại ngữ cho lực lượng lao động.

- Cần liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp FDI trong công tác liên quan đến đào tạo lao động. Hoạt động đào tạo cũng phải dựa trên việc khảo sát, nghiên cứu nhu cầu về lao động của thị trường nói chung và của các nhà đầu tư. Tăng cường và nâng cao chất lượng dự báo lao động sẽ là cơ sở để đổi mới công tác kế hoạch hoá giáo dục và đào tạo để chuẩn bị nguồn nhân lực được đào tạo hợp lý về số lượng, cơ cấu và kỹ năng, tránh tình trạng thừa thiếu, mất cân bằng về nhân lực. Đẩy mạnh xây dựng các trường dạy nghề chất lượng cao, tránh việc thành lập quá nhiều trường đại học trong khi hệ thống trường dạy nghề lại yếu và thiếu.

- Không chỉ tập trung đào tạo và phát triển, cần chú trọng đẩy mạnh thu hút và giữ chân lao động chất lượng cao thông qua các chính sách ưu đãi trọng dụng người tài như mức lương cạnh tranh, đãi ngộ tốt, mức độ thăng tiến trong nghề nghiệp được định hướng rõ ràng, phúc lợi hưu trí tốt; xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng lao động; tạo điều kiện để doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ

Xem tất cả 247 trang.

Ngày đăng: 15/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí