Nhóm Giải Pháp Liên Quan Đến Một Số Ngành Dịch Vụ Ưu Tiên Thu Hút Fdi Từ Asean


tầng như ký túc xá, nhà trẻ, nhà văn hoá công nhân nhằm tạo tâm lý ổn định, giữ chân lao động gắn bó với doanh nghiệp.

- Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, giúp mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực; mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, về nguồn nhân lực, chất lượng cuộc sống, thông tin về học tập, giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh các trường phổ thông.

5.2.1.4. Cải thiện chất lượng thể chế

Việt Nam còn đang duy trì nhiều rào cản đối với hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nói chung ở nhiều khía cạnh như điều kiện kinh doanh phức tạp, thủ tục hành chính thiếu minh bạch, tình trạng lạm dụng thanh tra kiểm tra để nhũng nhiễu doanh nghiệp, chi phí không chính thức còn lớn.... Bên cạnh đó, vấn đề lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam là cơ chế, cách thức thực thi cũng như giám sát việc thực thi chưa hiệu quả. Các văn bản hướng dẫn chồng chéo và thay đổi liên tục; chưa có phương thức thông tin và tuyên truyền hiệu quả cho các doanh nghiệp về các cam kết của Việt Nam về mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN; sự phối hợp giữa các bộ ngành và đơn vị liên quan trong việc thực hiện chính sách còn chưa khoa học…Thêm vào đó, một số quy định của Việt Nam được coi là mở nhưng chính sự mở và linh hoạt của các quy định lại tạo nên sự mơ hồ và gây khó khăn khi thực hiện các cam kết trong từng ngành dịch vụ cụ thể. Việc cải thiện môi trường đầu tư là rất cần thiết để tăng cường khả năng thu hút FDI ngành dịch vụ của Việt Nam. Một số giải pháp có thể thực hiện để cải thiện vấn đề nêu trêu bao gồm:

- Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính. Các địa phương cần tiến hành cải cách, cắt giảm về thủ tục, điều kiện kinh doanh, góp phần giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính về gia nhập thị trường. Việt Nam có thể học tập mô hình triển khai cơ chế một cửa quốc gia của Singapore trong cải cách thủ tục hành chính. Với cam kết mạnh mẽ từ lãnh đạo cấp cao, nền tảng pháp lý vững chắc, quá trình triền khai hợp lý và sự ủng hộ từ cộng đồng doanh nghiệp, mô hình này đã đóng góp quan trọng trong giải quyết thủ tục kinh doanh và đầu tư tại Singapore theo hướng nhanh chóng và hiệu quả.

- Đẩy mạnh Chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ công qua mạng internet, khắc phục tình trạng thiếu công khai, minh bạch thông tin về thủ tục hành chính, tình trạng quá hạn trong giải quyết thủ tục hành chính.

Bên cạnh đó, sự hấp dẫn của môi trường đầu tư còn thể hiện ở vấn đề minh bạch trong quản lý Nhà nước. Để kiểm soát tình trạng tham nhũng và nâng cao tính minh bạch của môi trường đầu tư, một số biện pháp có thể kể đến như sau:


- Thứ nhất, bổ sung và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật để giúp các bộ phận làm nhiệm vụ thực thi hiểu và làm đúng. Cần xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể, không quy định chung chung, tránh tình trạng gây ra các cách hiểu khác nhau và khó khăn trong việc thực hiện do các điều luật không rõ ràng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.

- Thứ hai, tuyên truyền phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng, thống nhất có hiệu quả từ nhận thức đến hành động của cán bộ, công chức, viên chức trong công tác về phòng chống tham nhũng.

- Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, giảm sát để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng. Xử lý nghiêm những cán bộ, công chức và đơn vị có hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Bên cạnh đó, có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cá nhân và tổ chức dám dũng cảm tố cáo, phát hiện những hành vi tham nhũng và lãng phí. Việt Nam có thể áp dụng mô hình cơ quan chuyên trách chống tham nhũng của Singapore trong việc xây dựng hệ thống tổ chức chống tham nhũng chuyên trách ổn định, độc lập, đủ quyền và đủ mạnh.

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - 19

5.2.1.5. Hoàn thiện và đồng bộ chính sách liên quan đến FDI

Chương 4 đã chỉ ra những hạn chế trong thực tiễn chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trong ngành dịch vụ. Luận án gợi ý một số giải pháp liên quan đến xây dựng và chuẩn hoá chính sách FDI như sau:

Thứ nhất, Chính phủ và các bộ - ban – ngành liên quan cần rà soát hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư để sửa đổi và thống nhất các nội dung không đồng bộ và thiếu nhất quán. Hiện nay giữa Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành Việt Nam vẫn còn thiếu đồng bộ về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, đặc biệt là các quy định về đối tượng, lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi đầu tư; các quy định về chuyển nhượng dự án và cổ phần, giữa Luật Đầu tư giữa các luật như Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế TNDN, gây ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các quy định về ưu đãi đầu tư, ưu đãi thuế đang được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau gây ra tình trạng chồng chéo.

Để khắc phục tình trạng này, một số biện pháp có thể thực hiện bao gồm:

- Cần thống nhất nội dung điều chỉnh trong các quy định liên quan đến FDI. Ví dụ, thống nhất lại về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng trong các quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư và chuyển nhượng cổ phần được áp dụng trong Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác; thống nhất các quy định liên quan đến chỉ định thầu trong các nghị định về đấu thầu dự án; thống nhất nguyên


tắc nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng điều kiện đầu tư như nhà đầu tư trong nước về hạn chế sở hữu chéo giữa các công ty…

- Thống nhất các quy định liên quan đến FDI tại một đầu mối xúc tiến đầu tư của cơ quan chức năng. Hệ thống luật pháp hiện hành liên quan đến đầu tư, kinh doanh cần được rà soát theo hướng đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Đầu tư; quy định rõ hơn những đặc thù về thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài; rà soát các quy định về hoạt động mua bán và sáp nhập có yếu tố nước ngoài để đồng bộ hóa và quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Để tránh sự không đồng bộ về đối tượng, lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi đầu tư, các chính sách và văn bản luật nên được tập trung theo cụm. Ví dụ, các chính sách thuế (ưu đãi tài chính) nên được tập trung trong các văn bản pháp luật về thuế thay vì nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau.

- Các quy định về thủ tục đầu tư nên sửa đổi theo hướng bãi bỏ quy định Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hoàn thiện các quy định về thủ tục đăng ký, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư nhằm làm rõ hồ sơ, quy trình, thủ tục, thời hạn thực hiện..., đồng thời bổ sung tiêu chí thẩm tra dự án phù hợp với quy hoạch và yêu cầu quản lý nhằm tránh tình trạng cấp phép tùy tiện, phá vỡ quy hoạch. Việc hoàn thiện các quy định về phân cấp cấp Giấy chứng nhận đầu tư cần theo hướng đảm bảo quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng lãnh thổ; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình thẩm tra và quản lý hoạt động của dự án. Quy định về thủ tục thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt là các quy định về thủ tục góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam, thủ tục chuyển nhượng dự án đầu tư và các thủ tục có liên quan đến việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, chuyển đổi hình thức đầu tư, hình thức doanh nghiệp cần nhanh chóng được hoàn thiện.

- Tại các địa phương, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư phải được tăng cường và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật. Trong tiêu chí cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhất là những dự án có quy mô lớn, có tác động lớn về kinh tế-xã hội, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư cần có các chế tài hoặc yêu cầu đặt cọc để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ triển khai dự án đúng tiến độ. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần hỗ trợ các doanh nghiệp FDI trong quá trình tìm kiếm thông tin và xây dựng môi trường đầu tư minh bạch ở Việt Nam.

Thứ hai, Chính phủ và các bộ - ban – ngành liên quan cần điều chỉnh luật và chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với bối cảnh hội nhập của Việt Nam. Việt Nam đã


và đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc ký kết hàng loạt các hiệp định song phương, đa phương và gia nhập các tổ chức thương mại. Vì vậy chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam cần được điều chỉnh theo hưởng đón trước các yêu cầu quốc tế. Theo đó, Việt Nam cần loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với các hiệp định về đầu tư và mở cửa thị trường dịch vụ trong ASEAN, xoá bỏ các yêu cầu về tỷ lệ góp vốn tối thiểu và hạn chế đối với chuyển vốn và lợi nhuận; tăng cường hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư và các biện pháp bảo vệ đầu tư, mở rộng các phân ngành dịch vụ cho phép đầu tư trên cơ sở tuân thủ cam kết ACIA và AFAS.

Thứ ba, Việt Nam cần thực hiện xúc tiến đầu tư chủ động đối với các nhà đầu tư ASEAN. Các chính sách hiện xúc tiến đầu tư hiện nay còn thụ động, mở cửa trên khắp các lĩnh vực và đợi nhà đầu tư vào, chưa có hoạt động xúc tiến chủ động, có mục tiêu, hướng tới thu hút các nhà đầu tư, dự án đầu tư và địa phương nhận đầu tư mà Việt Nam mong muốn. Các ưu đãi cũng chỉ chủ yếu là ưu đãi thuế và tài chính, ưu đãi trên diện rộng nhằm thu hút nhà đầu tư hoặc thu hút dựa vào lợi thế chi phí trong ngắn hạn mà chưa quan tâm đến ưu đãi theo năng lực và khả năng tạo ra giá trị của các nhà đầu tư cũng như dự án đầu tư.Vì vậy, các dự án đầu tư còn tràn lan, cơ cấu đầu tư mất cân xứng chỉ tập trung vào những ngành có lợi nhuận cao, nhiều dự án nhỏ không có tác động lan toả. Như đã phân tích, nguyên nhân chủ yếu là do so với các đối tác đầu tư Hàn Quốc và Nhật Bản, đầu tư của các nước ASEAN còn tương đối nhỏ nên chưa nhận được sự quan tâm trong hoạt động xúc tiến đầu tư.

Theo đó, Việt Nam cần thực hiện xây dựng chiến lược xúc tiền đầu tư một cách chủ động, đa dạng hoá các hoạt động và phương thức xúc tiến đầu tư đối với nhiều quốc gia ASEAN tiềm năng khác, chủ động đẩy mạnh công tác vận động, tìm kiếm và mời gọi doanh nghiệp phù hợp với định hướng thu hút đầu tư, có tiềm lực tài chính nhằm đa dạng hoá và tận dụng được thế mạnh của các đối tác đầu tư, thực hiện cơ chế đầu tư nước ngoài bền vững. Các ưu đãi đầu tư không thể vi phạm các cam kết về đầu tư mà Việt Nam đã ký kết, vì thế các đối xử đặc biệt cho các nhà đầu tư nói chung đa phần được thực hiện thông qua một số công cụ hỗ trợ như ưu đãi về đất, gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ thuế hoặc thông qua hoạt động xúc tiến đầu tư.

Thứ nhất, các địa phương cần thiết kế chính sách riêng biệt thu hút các nhà đầu tư chiến lược. Đây là biện pháp hiệu quả đã được áp dụng ở một số nước ASEAN như Singapore, Malaysia và Thái Lan để nâng cấp chất lượng FDI, giúp tránh được tình trạng ưu đãi tràn lan, đồng thời cho phép các nhà đầu tư tiềm năng thấy được giá trị của mình khi đầu tư vào Việt Nam. Việc xác định các nhà đầu tư chiến lược cũng


giúp Việt Nam định hướng FDI vào các lĩnh vực và dự án cụ thể, từ đó thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả. Một số đối tượng có thể được coi là “nhà đầu tư chiến lược” bao gồm các đối tác lớn, trung thành và có quan hệ lâu năm; các MNEs có tiềm năng mạnh về vốn và thị trường, các nhà đầu tư đến từ các quốc gia nắm giữ công nghệ nguồn… Ưu đãi đầu tư mà Việt Nam dành cho các nhà đầu tư không kém hấp dẫn hơn ưu đãi đầu tư của Thái Lan, Malaysia. Điểm khác nhau đó là: đối với một số dự án mục tiêu thuộc ưu tiên thu hút, chính phủ các nước này cho phép cơ quan phát triển đầu tư đàm phán trực tiếp gói ưu đãi với nhà đầu tư. Do đó, với các đối tác đầu tư tiềm năng, cần xây dựng chương trình ưu đãi đặc biệt như thường xuyên kết nối xúc tiến và quảng bá đầu tư, hỗ trợ thủ tục đầu tư từ xa...tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư ASEAN. Tuy nhiên, không hạ tiêu chí để huy động vốn bằng mọi giá, tạo điều kiện cho nhà đầu tư yếu kém năng lực, gây ra những vấn đề tiêu cực như chậm tiến độ, chất lượng không đảm bảo, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội…

Thứ hai, địa phương cần định vị rõ lợi thế cạnh tranh và sản phẩm của địa phương dựa trên phân tích địa mạnh, điểm yếu trong mối tương quan với các tỉnh và thành phố trong vùng và cả nước. Trên cơ sơ đó, tuỳ thuộc vào đặc điểm đặc thù và thế mạnh, địa phương lựa chọn lĩnh vực đầu tư ưu tiên (ví dụ, các vùng có bờ biển đẹp hoặc tài nguyên văn hoá lịch sử có thể chú trọng phát triển dịch vụ du lịch và lưu trú; các địa phương phát triển mạnh về công nghiệp có thể ưu tiên thu hút các dịch vụ hỗ trợ công nghiệp…) nhằm xây dựng chiến lược marketing địa phương và thu hút FDI hợp lý, phù hợp với quy hoạch vùng và tỉnh. Đồng thời cần chú ý nắm bắt xu thế phát triển của các ngành nghề để định hướng thu hút, ví dụ dự báo về sự biến mất của các trung tâm thương mại lớn hoặc xu hướng phát triển của ngành logistics để xác định có nên thu hút vào các lĩnh vực này nữa không.

Ngoài ra, việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng là yếu tố quan trọng thu hút FDI nói chung và FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ nói riêng. Để chuẩn bị tốt cho việc mở cửa phương thức 1 theo đúng tinh thần của AEC Blueprint, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin (CNTT) và cơ sở hạ tầng Internet. Hạ tầng cần đáp ứng, cung cấp được mọi loại dịch vụ cả viễn thông, Internet, công nghệ thông tin và các loại hình dịch vụ mới khác, đồng thời đảm bảo độ an toàn, bí mật, tính cá thể của đối tượng tham gia vào mạng Internet, viễn thông – phấn đấu tăng thứ hạng vượt bậc trong bảng xếp hạng của Liên minh Viễn thông quốc tế. Chính phủ cần đưa hạng mục “công nghệ thông tin” vào danh mục ngân sách, mở cơ chế và hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào CNTT nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các nhà cung cấp nước ngoài, tiến tới đẩy mạnh cung cấp dịch vụ qua biên giới cho các quốc gia


ASEAN khác trong tương lai. Cơ sở hạ tầng giao thông cũng cần được cải thiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI.

5.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến một số ngành dịch vụ ưu tiên thu hút FDI từ ASEAN

Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, tiêu biểu là Singapore trong thu hút FDI đó là cần có mục tiêu cụ thể, trong đó việc xác định thu hút FDI vào một số lĩnh vực ưu tiên thay vì thu hút dàn trải là rất quan trọng. Căn cứ vào năng lực và trách nhiệm của đối tác đầu tư, những phương án lựa chọn địa điểm mà nhà đầu tư có thể có và nguồn lực hữu hạn của cơ quan xúc tiến đầu tư nước ngoài ở trung ương và địa phương, cần chủ động định hướng xúc tiến đầu tư để sắp xếp thứ tự ưu tiênthu hút FDI từ ASEAN vào những ngành dịch vụ phù hợp.

5.2.2.1. Xác định các ngành dịch vụ ưu tiên

Việc khuyến khích đầu tư tập trung có trọng tâm, trọng điểm là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh các nguồn lực và trình độ phát triển của Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, việc xác định các ngành dịch vụ ưu tiên sẽ giúp xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm thu hút FDI cho các ngành này, tránh tình trạng thu hút dàn trải, không có định hướng. Luận án đề xuất các chỉ tiêu để lựa chọn ngành ưu tiên bao gồm:

Căn cứ vào định hướng phát triển các ngành dịch vụ của Việt Nam: Trước hết, cần định hướng rõ các ngành được ưu tiên và các ngành không khuyến khích thu hút FDI. Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đã xác định các ngành dịch vụ ưu tiên phát triển của Việt Nam bao gồm dịch vụ du lịch, logistics và vận tải, công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính – ngân hàng, y tế giáo dục. Cùng với nhu cầu phát triển các ngành dịch vụ hướng tới phát triển kinh tế, cần hướng tới phát triển dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng sống của người dân, những ngày dịch vụ có giá trị và hàm lượng tri thức cao.

Bên cạnh xu thế hội nhập trong bối cảnh số, lý do lựa chọn các ngành dịch vụ ưu tiên phát triển của Việt Nam đó là: giống như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành có nguy cơ độc quyền nước ngoài như phân phối bán lẻ hoặc gây mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc gia như bất động sản. Vì vậy, đối với một số ngành dịch vụ, mặc dù cam kết mở cửa, nhưng trên thực tế Việt Nam vẫn xây dựng nhiều hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài.

Bên cạnh đó, cần quan tâm đến lợi thế của Việt Nam trong phát triển dịch vụ. Việt Nam có lợi thế rất lớn về vị trí địa lý, thích hợp là điểm trung chuyển hàng hoá và dịch vụ quan trọng. Việt Nam có thể học tập bài học kinh nghiệm của Singapore trong việc mở cửa dịch vụ vận tải và logistics, xây dựng đây thành thế


mạnh quốc gia. Ngoài ra, với đường bờ biển dài và thiên nhiên phong phú, Việt Nam cũng được đánh giá có tiềm năng lớn trong phát triển dịch vụ du lịch. Đây là những lợi thế trong khi thu hút FDI của Việt Nam.

Căn cứ vào lợi thế của các quốc gia ASEAN: Từ phân tích thực tiễn tình hình đầu tư, có thể thấy các phân ngành bán buôn bán lẻ, vận tải kho bãi, giáo dục và đào tạo, y tế, hoạt động chuyên môn - khoa học - công nghệ cũng là phân ngành ASEAN chiếm lượng FDI lớn so với tổng FDI vào ngành dịch vụ của Việt Nam. Đặc biệt trong đó, giáo dục - đào tạo y tế có thể được coi là thế mạnh của những nhà đầu tư ASEAN so với những nhóm nhà đầu tư khác khi chiếm đa số tổng vốn đầu tư vào ngành dịch vụ.

Căn cứ vào ưu tiên của AFAS: Trong AFAS, các lĩnh vực được ưu tiên bao gồm e-ASEAN, du lịch, chăm sóc sức khoẻ, du lịch hàng không và hậu cần. Việt Nam cũng cần có quy hoạch ưu tiên các phân ngành này để tận dụng các ưu đãi mà AEC mang lại.

Như vậy, từ định hướng phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam cũng như thế mạnh của các nhà đầu tư ASEAN, luận án đề xuất một số ngành dịch vụ mà Việt Nam có thể tập trung thu hút FDI từ ASEAN bao gồm: vận tải kho bãi - logistics , giáo dục – đào tạo, y tế và trợ giúp xã hội. Giải pháp phát triển các dịch vụ này cũng được đề xuất trong Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phát triển có trọng điểm các ngành dịch vụ, tuy nhiên việc thu hút FDI của Việt Nam cần tránh tình trạng rải mảnh, không khuyến khích các dự án có các sản phẩm dịch vụ chất lượng thấp hoặc hoạt động không hiệu quả.

Việc xác định các phân ngành ưu tiên đòi hỏi Việt Nam cần có các biện pháp mở cửa hoàn toàn với các phân ngành này. Trong ngành dịch vụ, các rào cản phi thuế quan là rất lớn. Muốn thu hút FDI nhằm hướng tới phát triển các phân ngành này thì việc tiếp tục mở cửa sâu rộng, dỡ bỏ các hạn chế hoàn toàn là rất cần thiết.

Việt Nam đã cam kết định hướng thị trường trong các hiệp định quốc tế nhưng vẫn hoạt động trên khuôn khổ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch và điều này làm cho các dịch vụ cạnh tranh khó phát triển. Các kết quả phân tích của nghiên cứu này cho thấy mở cửa ngành dịch vụ đã có những tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành dịch vụ Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, cả ở mức độ cam kết mở cửa thị trường trong AEC lẫn mức mở cửa thực tế. Khi so sánh với một số nước khác trong khu vực như Campuchia và Singapore, nhất là Singapore hầu như không có hạn chế nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia ở cả 4 phương thức,


thì mức độ mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam còn hạn chế. Từ đó, hệ thống pháp luật cũng chưa có sự biến chuyển lớn nhằm tạo tiền đề và hành lang pháp lý cho việc thực thi cam kết rộng mở hơn. Việc tiếp tục mở cửa hơn nữa thị trường dịch vụ cũng là nhu cầu nội tại của nền kinh tế Việt Nam chứ không chỉ bởi áp lực mở cửa từ các cam kết quốc tế. Trong nỗ lực mở cửa thị trường dịch vụ của mình, với những quan điểm thống nhất về hội nhập nói chung, một số biện pháp Việt Nam có thể thực hiện bao gồm:

Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng mở cửa, loại bỏ các rào cản pháp lý đối với dịch vụ, đặc biệt trong các ngành ưu tiên cần rỡ bỏ hoàn toàn các rào cản phi thuế quan, làm nền tảng cho những thay đổi về tự do hóa dịch vụ về sau, nhằm đạt được lợi ích lâu dài trong khu vực. Với các ngành, phân ngành dịch vụ mà Việt Nam vẫn còn duy trì nhiều hạn chế, các nhà cung cấp dịch vụ, đầu tư nước ngoài có thể vận dụng các thực tế này để vận động Chính phủ chủ động mở cửa rộng hơn cam kết. Ngành dịch vụ có truyền thống được quản lý rất chặt trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong vòng 20-25 năm vừa qua, nhiều nước - kể cả phát triển và đang phát triển - đã tự do hóa đáng kể thị trường dịch vụ của mình và đã cải cách các quy định trong ngành dịch vụ vì nhữngđóng góp quan trọng của ngành dịch vụ đối với nền kinh tế quốc dân..

Thứ hai, cần thực thi hiệu quả các phương thức xoả bỏ hoặc cải thiện các trở ngại và hạn chế đầu tư trong ASEAN. Các hiệp định trong AEC vẫn có ngoại lệ cho nhóm nước CLMV, theo đó các nước này có thể cam kết theo lộ trình để đảm bảo phù hợp với đặc điểm đầu tư. Để tăng tính cạnh tranh, Việt Nam cần xác định cơ chế phù hợp để tiến hành dỡ bỏ và giảm các danh mục bảo lưu đầu tư, thực hiện các cam kết đầu tư chung của ACIA cũng như AFAS, tiến tới tự do hoá sâu rộng như mức độ mở cửa của Singapore trong các ngành dịch vụ ưu tiên.

Thứ ba, Chính phủ và các bộ ban ngành liên quan như Bộ Công thương, Bộ Tài chính...cần tăng cường tham vấn doanh nghiệp về việc mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam. Các phương án mở cửa thị trường dịch vụ của Chính phủ, dù là tự động theo nhu cầu của nền kinh tế, hay theo các đàm phán thương mại quốc tế, cần có sự tham vấn chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam việc tham vấn cộng đồng doanh nghiệp trong việc xây dựng các chính sách thương mại quốc tế nói chung và các chiến lược tự do hóa thương mại nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Mỗi phương án mở cửa có thể có tác động khác nhau đến các ngành khác nhau, một số ngành có thể được hưởng lợi trong khi một số ngành khác lại bị thiệt hại. Việc lấy ý kiến và xem xét ý kiến của các doanh nghiệp trong từng ngành và cả cộng đồng doanh nghiệp nói chung là cần thiết để Chính phủ có thông tin đầu vào

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/12/2023