lớn, hoạt động ngày càng phức tạp và chi phí gia tăng mạnh hơn. Khi đó lợi ích thu
được sẽ kém hơn chi phí bỏ ra.
Để dung hòa hai trường phái trên, một dạng mối quan hệ thứ 3 được đưa ra đó là quan hệ chữ S ngang. Tức là khi mức độ OFDI còn thấp, chi phí cố định cần được quan tâm, còn ở mức OFDI cao, chi phí thường xuyên cần được quan tâm. Các chi phí giai đoạn đầu liên quan đến những vấn đề do không thông thạo quy định pháp luật tại thị trường mới, chưa nắm bắt được thị hiếu, chưa có nguồn khách hàng,… Các chi phí trong giai đoạn OFDI cao liên quan đến chi phí điều phối, quản lý, giám sát hoạt động OFDI, hay những rủi ro tại thị trường nước ngoài. Các nhà nghiên cứu lập luận rằng
các chi phí trong giai đoạn đầu có thể nhanh chóng được giảm thiểu và nhờ đó hiệu quả được cải thiện. Tuy nhiên sau này các chi phí ngày càng cao hơn và việc giảm thiểu rất khó khăn, việc nghiên cứu để giảm thiểu cần thời gian và chưa chắc thành công. Do đó khi ở mức OFDI cao, hiệu quả giảm xuống.
Cụ thể như sau:
Mối quan hệ tuyến tính thuận chiều: Nghiên cứu của Grant (1987) chỉ ra mối liên hệ tuyến tính thuận chiều giữa OFDI và kết quả hoạt động kinh doanh. Tác giả thực hiện kiểm tra mẫu 304 công ty sản xuất tại Vương quốc Anh trong 12 năm từ 1972 đến 1984. Chỉ tiêu đại diện cho OFDI là tỷ lệ doanh số bán hàng nước ngoài trong tổng doanh số công ty. Chỉ tiêu đại diện cho kết quả kinh doanh gồm lợi nhuận trên tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và lợi nhuận trên doanh thu bán hàng (ROS). Grant sử dụng phân tích hồi quy bội để kiểm soát ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp và các lợi thế có được từ thành viên thị trường. Từ đó đưa ra phát hiện quan trọng là tính đa quốc gia có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến cả ba thước đo kết quả kinh doanh.
Tương tự, Delios và Beamish (1999) cũng công bố kết quả chứng minh rằng phạm vi địa lý có mối quan hệ tích cực đối với lợi nhuận của công ty, ngay cả khi loại trừ tác động của các lợi thế về bằng sáng chế, chi phí đầu tư cho quảng cáo. Tác giả xác định phạm vi địa lý là số lượng các dự án, số tiền OFDI và số lượng quốc gia đã đầu tư. Các thước đo hiệu suất gồm lợi nhuận trên tài sản (ROA), vốn chủ sở hữu và doanh thu.
Mối quan hệ tuyến tính ngược chiều: Ngược lại, một số tác giả nhận thấy mối liên hệ tiêu cực tuyến tính giữa OFDI và OE. Ví dụ, Siddharthan và Lall (1982) công bố kết quả nghiên cứu về 74 công ty sản xuất của Hoa Kỳ trong từ năm 1976 đến năm 1979. Kết quả cho thấy OFDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng thu nhập. OFDI
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Mối Quan Hệ Tác Động Giữa Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Tác Động Của Đầu Tư Trực Tiếp Ra Nước Ngoài Và Hiệu Quả Các Ngân Hàng
- Các Giả Thuyết Về Biến Tác Động Đến Mối Quan Hệ Giữa Hoạt Động Đầu Tư Trực Tiếp Ra Nước Ngoài Và Hiệu Quả Hoạt Động
- Tổng Hợp Các Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Định Nghĩa Và Đo Lường Các Biến Trong Mô Hình Định Lượng
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
được xác định bằng tỷ trọng doanh số bán hàng tại thị trường nước ngoài trong tổng doanh số, đồng thời kiểm soát ảnh hưởng của yếu tố quy mô công ty và tài sản vô hình. Nghiên cứu của Chang và Thomas (1989) cũng chỉ ra rằng sự thay đổi của OFDI (đo lường theo doanh số bán hàng nước ngoài) ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng lợi nhuận. Khi thực hiện theo cách tiếp cận "so sánh", Severn (1990) thu được kết quả các công ty có hoạt động OFDI có tỷ suất sinh lợi trên tài sản tốt hơn so với các công ty không có hoạt động này.
Mối quan hệ hình chữ “U”: Một số nghiên cứu khác lại chỉ ra kết qủa là mối quan hệ này có dạng hình chữ “U” bằng cách đưa ra mối liên hệ của sai phân bậc hai giữa mức độ OFDI và OE của công ty. Capar và Kotabe (2003) tìm thấy bằng chứng cho mối quan hệ hình chữ U giữa tính đa quốc gia và OE của doanh nghiệp. Trong nghiên cứu của họ cũng đưa vào các biến kiểm soát tác động của quy mô doanh nghiệp và sự liên kết trong ngành. Kết quả chỉ ra rằng ban đầu, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu giảm khi mức độ quốc tế hóa (đo bằng tỷ lệ doanh số bán hàng nước ngoài trên tổng doanh số bán hàng) tăng lên. Tuy nhiên, sau khi đạt đến ngưỡng đa dạng hóa quốc tế, doanh thu bán hàng sẽ đổi chiều và liên tục tăng lên. Tác giả giải thích kết quả này theo hướng, quá trình quốc tế hóa giai đoạn đầu thường không mang lại lợi ích do kiến thức thị trường nước ngoài và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế còn thấp.
Tuy nhiên, các công ty có thể gặt hái được nhiều lợi ích từ quy mô và phạm vi kinh tế ở mức độ quốc tế hóa cao hơn. Phát hiện của Mathur et al. (1983) cũng tương tự. Bằng cách sử dụng mối quan hệ phi tuyến tính giữa OFDI và hiệu quả, họ xác định ra một “ngưỡng thay đổi”. Trước ngưỡng này, OE tài chính (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận) có tác động tiêu cực đến mức độ OFDI (tài sản nước ngoài so với tổng tài sản). Tuy nhiên, vượt quá mức độ này, chiều tác động đổi lại thành tích cực và tạo thành dạng hình chữ U của mối quan hệ tổng thể. Tương tự, nghiên cứu của Lu và Beamish (2001) cũng kết luận "khi các công ty mới bắt đầu hoạt động FDI, khả năng sinh lời sẽ giảm, nhưng mức độ FDI lớn hơn có liên quan đến hiệu suất cao hơn”.
Mối quan hệ hình chữ U ngược: Kết quả ngược lại được thể hiện trong nghiên cứu của Geringer et al. (1989). Họ tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa mức độ quốc tế hóa (phần trăm doanh số bán hàng nước ngoài) và OE của các công ty có OFDI (được đo bằng cả ROS và ROA). Mặc dù nói chung, kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ OFDI của các công ty là khác nhau sẽ khiến kết quả hoạt động cũng khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra sự tồn tại của "ngưỡng" đối với tác động của hoạt động này. Khi mức độ OFDI cao dần thì hiệu quả cũng được cải thiện dần, nhưng sau đó đạt đến đỉnh và giảm dần. Giải thích cho điều này, các tác giả lý luận
rằng khi thị trường theo địa lý ngày càng được mở rộng thì chi phí liên quan đến sự phân tán địa lý ngày càng leo thang, từ đó làm xói mòn biên lợi nhuận. Họ tiếp tục cho rằng phát hiện này phù hợp với quan điểm về giới hạn của năng lực quản lý để đối phó với sự phức tạp ngày càng tăng. Geringer và cộng sự (1989) đã chọn kiểm tra mẫu 200 công ty đa quốc gia, trong đó gồm 100 công ty lớn nhất, từ cả Hoa Kỳ và Châu Âu. Kết quả cho thấy có sự khác biệt giữa hiệu quả kinh doanh của các công ty thuộc nhóm Hoa kỳ và Châu Âu. Do đó, kết quả mối quan hệ chữ “U” ngược trên chỉ có ý nghĩa khi dư liệu đã được chuẩn hóa để loại bỏ yếu tố khác biệt về nguồn gốc công ty.
Gomes và Ramaswamy (1999) sử dụng kỹ thuật pooled và chuỗi thời gian để kiểm tra tính ổn định của quá trình OFDI với kết quả theo thời gian. Họ xác định OFDI được đại diện bằng một chỉ số tổng hợp bao gồm; (i) tỷ lệ bán hàng nước ngoài trên tổng doanh thu, (ii) tỷ lệ tài sản nước ngoài trên tổng tài sản và (iii) số lượng quốc gia mà một công ty có công ty con. OE của công ty được đánh giá bằng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản và tỷ lệ chi phí hoạt động trên doanh thu. Sau khi kiểm soát các ảnh hưởng của quy mô công ty và tư cách thành viên trong ngành, các phân tích của họ cung cấp bằng chứng rõ ràng cho mối quan hệ hình chữ U ngược.
Nghiên cứu của Daniels và Bracker (1989) cũng cho kết quả tương tự, OFDI có liên quan tích cực đến ROS và ROA, tuy nhiên, với những giới hạn trên nhất định. Do đó, các tác giả đưa ra giả thuyết rằng tồn tại một mức độ OFDI tối ưu sẽ tạo thành dạng mối quan hệ hình chữ U ngược. Tuy nhiên, nghiên cứu của của họ lại chưa thể đưa ra bằng chứng cho lợi nhuận giảm dần. Hơn nữa, bằng cách chạy các phân tích hồi quy riêng biệt cho mỗi ngành, họ tìm thấy các sức mạnh giải thích khác nhau của biến OFDI.
Mối quan hệ hình chữ “S” nằm ngang: Một số nhà nghiên cứu khác lại tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ khối giữa OFDI và OE của công ty theo hình chữ “S” nằm ngang. Ví dụ, Lu và Beamish (2004) chứng minh rằng, ở mức độ quốc tế hóa cao và thấp, mức độ OFDI có liên quan tiêu cực đến OE của doanh nghiệp. Ngược lại, ở mức độ quốc tế hóa vừa phải, mức độ OFDI lớn hơn đi kèm với hiệu quả cao hơn. Họ kết luận rằng mối quan hệ hình chữ S nằm ngang giữa OFDI và hiệu quả cung cấp cơ sở để giải thichs sự không nhất quán của các kết quả thực nghiệm. Tương tự, Thomas và Eden (2004) chỉ ra rằng mối quan hệ giữa OFDI và hiệu quả được thể hiện qua ba giai đoạn; tác động của OFDI đối với OE của công ty phụ thuộc vào chiều dài thời gian trong thước đo OE. Do đó, mối quan hệ giữa OFDI và hiệu suất ngắn hạn (ROS, ROA và ROE) có dạng hình chữ “U” ngược, trong khi hiệu suất dài hạn (giá trị thị
trường vượt mức và giá trị thị trường trung bình) có mối liên hệ tích cực với OFDI theo hình chữ “S” nằm ngang.
1.3.1.2. Các nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu thị trường
Các nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu liên quan đến kết quả trên thị trường chứng khoán ít hơn tương đối so với các chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Tuy nhiên kết quả rà soát cũng cho thấy hoạt động OFDI có mối quan hệ tuyến tính với OE. Cụ thể như sau:
Bühner (1987) cũng tìm thấy mối quan hệ tuyến tính tích cực giữa tính đa quốc gia được đo lường bằng chỉ số theo khu vực (dựa trên doanh số bán hàng) và OE của công ty theo kế toán và cả theo thị trường chứng khoán (đánh giá bằng cách sử dụng alpha của Jensen).
Denis et al. (2002) xem xét ảnh hưởng của OFDI tới mức tăng giá cổ phiếu trên thị trường niêm yết và thấy rằng về tổng thể, mối quan hệ này là ngược chiều. Bằng cách sử dụng phân tích đơn biến, nghiên cứu phát hiện ra rằng các công ty có OFDI trung bình có giá trị gia tăng của cổ phiếu là âm, khác biệt lớn so với các công ty không OFDI. Tiếp tục kiểm chứng bằng phân tích hồi quy đa biến kiểm soát các tài sản vô hình (cụ thể là R&D và quảng cáo) cũng cho kết quả tương tự. Biến giả đo lường "tình trạng đa quốc gia" của một công ty (dựa trên doanh số bán hàng nước ngoài thường xuyên) có tác động tiêu cực đến giá trị công ty.
Christophe và Lee (2005) sử dụng quan điểm định giá thị trường bằng cách đánh giá tác động của tính đa quốc gia đối với Tobin's q. Kết quả cho thấy tỷ lệ tài sản nước ngoài trên tổng tài sản (FATA) của một công ty và giá trị thị trường của nó theo Tobin's q có quan hệ tuyến tính nghịch biến. Trong khi hiệu ứng tuyến tính ngược của OFDI là tác động chính thì tác động thuận chiều chỉ có ý nghĩa rất hạn chế.
Nghiên cứu của Accenture (2001) về quan hệ giữa OFDI và lợi ích của cổ đông thực hiện trên mẫu gồm 31 công ty tài chính trên thế giới được lựa chọn theo địa lý với ít nhất mỗi lục địa là 3 công ty, theo doanh thu (ít nhất 25% ngoài nội địa), tài sản (ít nhất 35% ngoài nội địa) và có vốn hóa thị trường lớn hơn 1 tỷ USD trong vòng 10 năm trước 1996. Kết quả cho thấy có 14 trong 31 công ty đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 4,6%, cao hơn so với các công ty nội địa; 5 trong 14 công ty có mức tăng trưởng hơn 9,4%. Các công ty thành công thường có xu hướng chủ động trong hoạt động OFDI và theo đuổi một chiến lược đầu tư tập trung. Tuy nhiên không có phân tích độ nhạy nào được thực hiện, ví dụ như mức độ lợi nhuận của cổ động theo mức độ OFDI.
Slager (2005) cho rằng OFDI mang lại lợi ích không rõ nét cho cổ đông. Tác động ngược của OFDI lên kết quả kinh doanh cũng được khẳng định đối với các doanh nghiệp nói chung (Katrishen và Scordis, 1998, Capar và Kotabe, 2003). Slager (2006) nghiên cứu mối quan hệ của OFDI với lợi nhuận và giá trị cổ đông trong ngân hàng. Nghiên cứu giả thiết rằng OFDI không mang lại đóng góp tích cực cho lợi nhuận và giá trị cổ đông không tăng. Dữ liệu sử dụng là 3-5 ngân hàng lớn nhất trong 8 nước và kết quả kinh doanh của 44 nước trong khoảng thời gian 1980 đến 2003. Họ sử dụng chỉ tiêu TNI cho mỗi ngân hàng và hồi quy với các chỉ tiêu kết quả. Kết quả cho thấy càng mở rộng quốc tế lại càng làm giá trị cổ đông sụt giảm, trong khi đó các ngân hàng rút lui khỏi OFDI thì giá trị lại tăng lên.
1.3.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu về vấn đề tác động của hoạt động OFDI đến OE của các NHTM. Nguyên nhân do khả năng tiếp cận thông tin đối với hoạt động OFDI của các NHTM Việt Nam là rất ít. Hầu như những cá nhân tổ chức bên ngoài ngân hàng không thể tiếp cận được các thông tin này mà chỉ có thể có được những thông tin rời rạc về một số chỉ tiêu tài chính đã được điều chỉnh, không phản ánh chân thực bản chất. Những đơn vị quản lý nhà nước đối với hoạt động OFDI của các ngân hàng như Ngân hàng nhà nước Việt Nam hay Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng không tiếp cận được những thông tin này một cách đầy đủ và chân thực. Ngay cả trong nội bộ ngân hàng cũng rất khó khăn để có được những dữ liệu thông tin cần thiết để thực hiện nghiên cứu.
Mở rộng hơn phạm vi nghiên cứu, hoạt động OFDI của doanh nghiệp Việt Nam đã có một số nghiên cứu được công bố. Rà soát tổng thể có thể thấy mục tiêu của các nghiên cứu này tập trung vào mô tả hoạt động OFDI của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên do những khó khăn trong tiếp cận thông tin, các nội dung đều đang khá chung, dừng lại ở một số con số thống kê đơn giản về số vốn đăng ký đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư về quốc gia, lĩnh vực. Một số nghiên cứu tốt hơn có liệt kê lại các thông tin về hoạt động OFDI của một số doanh nghiệp lớn công bố trên báo chí... Điều đáng lưu ý là các nghiên cứu hoàn toàn không có phân tích về hiệu quả của hoạt động này. Có thể kể đến một ví dụ điển hình như:
- Luận án tiến sĩ đề tài “Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Hải Đăng (2013), Trường Đại học kinh tế thuộc Đại học Quốc gia, Hà nội. Nội dung của luận án gồm: (i) cơ sở
lý luận và thực tiễn về OFDI gồm các khái niệm, hình thức, tính tất yếu của FDI; cơ sở lý thuyết, các nhân tố ảnh hưởng và vai trò của nhà nước với FDI; mục đích và tác động của FDI từ đó rút ra kinh nghiệm và bài học với Việt Nam; (ii) Thực trạng gồm: hệ thống lại quá trình hội nhập kinh tế và hệ thống pháp luật về OFDI của Việt nam; các thông tin quản lý chung về quy mô, cơ cấu và hoạt động đầu tư của một số doanh nghiệp để từ đó đánh giá những lợi ích và hạn chế, nguyên nhân; (iii) cuối cùng đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận án tiến sĩ đề tài: “Nghiên cứu phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nam vào lĩnh vực công nghiệp ở CHDCND Lào” của tác giả Nguyễn Văn An (2012), Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án trình bầy: (i) Cơ sở lý luận và kinh nghiệm một số nước về OFDI gồm: bản chất và đặc điểm, một số lý thuyết và các hình thức đầu tư, những điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động OFDI từ đó rút ra kinh nghiệm chung; (ii) Thực trạng phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt nam vào lĩnh vực công nghiệp ở Lào giai đoạn 2005 – 2010 gồm sự cần thiết phải đầu tư, thực trạng, các giải pháp chủ yếu để phát triển và kết luận về thành tựu và hạn chế, nguyên nhân; (iii) Giải pháp phát triển đến 2020.
Những nghiên cứu này vẫn chưa đề cập đến hiệu quả đạt được từ OFDI của doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Đặc biệt những nghiên cứu này mới đưa ra bề nổi của vấn để mà chưa cho thấy những nguyên nhân, chiến lược và thực tế ẩn đằng sau đó.
1.3.3. Khoảng trống nghiên cứu
Tóm lại, các nghiên cứu hiện nay đã cung cấp một bức tranh khá đầy đủ nhưng cũng nhiều mâu thuẫn về mối quan hệ OFDI và OE. Trong đó điểm còn trống trong các nghiên cứu là:
Thứ nhất, các nghiên cứu mới tập trung xem xét đánh giá tác động của hoạt động OFDI đến kết quả tài chính và các chỉ tiêu thị trường của NHTM. Trong khi đó theo những lý thuyết về phát triển công ty đa quốc gia, động lực chính kéo các công ty thực hiện OFDI, liên tục mở rộng quy mô hinh doanh ở phạm vi thế giới là khai thác lợi thế theo quy mô, lợi thế theo phạm vi, lợi ích từ đa dạng hóa, kéo dài vòng đời sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng cơ hội tích lũy kinh nghiệm, học hỏi. Những lợi thế này được phản ánh thông qua chỉ tiêu hiệu quả hoạt động. Theo đó, việc
đánh giá tác động của OFDI đến kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ đầy đủ hơn khi đánh giá cả tác động của OFDI đến hiệu quả hoạt động.
Hơn nữa, hiện nay các nghiên cứu chủ yếu sử dụng mẫu là các ngân hàng lớn trên thế giới và đã có lịch sử OFDI lâu đời. Do đó đối với những ngân hàng có quy mô nhỏ và đang trong giai đoạn đầu của quá trình OFDI như trường hợp các NHTM Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu nào liên quan đến vấn đề này.
Thứ hai, bên cạnh việc chưa có nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa mức độ OFDI và hiệu quả hoạt động của các NHTM, các yếu tố có vai trò điều tiết, tác động đến mối quan hệ này cũng chưa được nghiên cứu. Đây cũng là khoảng trống nghiên cứu cần được nghiên cứu.
1.4. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở các khoảng trống nghiên cứu như trên, các giả thuyết nghiên cứu
được xây dựng:
1.4.1. Giả thuyết về mối quan hệ giữa hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động có nguồn gốc từ khái niệm năng suất. Theo OECD (2001), năng suất được định nghĩa là tỷ số giữa thước đo quy mô đầu ra với thước đo quy mô sử dụng đầu vào. Với cách định nghĩa gần tương tự nhưng sát hơn với hoạt động kinh doanh của các công ty, Lovell (1993) định nghĩa năng suất là tỷ lệ giữa sản lượng đầu ra và đầu vào.
Theo rà soát của OECD (2001), có đến 5 ứng dụng của thuật ngữ năng suất và hiệu quả là một trong số đó. OECD không định nghĩa thuật ngữ “hiệu quả” nói chung mà chỉ định nghĩa thuật ngữ “hiệu quả kỹ thuật”. Cụ thể, đạt hiệu quả tối đa về mặt kỹ thuật nghĩa là quá trình sản xuất đã đạt được đến sản lượng đầu ra tối đa có thể đạt được về mặt vật lý với công nghệ nhất định và với lượng đầu vào cố định (Diewert và Laurence, 1999). Tăng hiệu quả kỹ thuật là quá trình di chuyển hướng đến những thực hành tốt nhất, hoặc giảm thiểu tối đa những vấn đề phi hiệu quả về mặt kỹ thuật và tổ chức.
Với cách thức khá tương đồng, Lovell (1993) xây dựng khái niệm về hiệu quả từ khái niệm năng suất. Cụ thể hiệu quả là khái niệm tương đối dựa trên so sánh giữa các giá trị quan sát được và giá trị tối ưu của sự kết hợp giữa đầu ra và đầu vào. So sánh có thể ở dạng tỷ lệ giữa sản lượng tiềm năng có thể đạt được tối đa quan sát được từ đầu vào nhất định, hoặc tỷ lệ giữa tiềm năng tối thiểu so với đầu vào quan sát được
yêu cầu để tạo ra đầu ra nhất định. Nói cách khác, theo Lovell (1993), hiệu quả được xem là khoảng cách giữa năng suất của tổ chức với năng suất được xác định tại đường biên giới hạn tốt nhất của nhóm tổ chức tương tự được xem xét.
Koopmans (1951) tiếp tục phát triển khái niệm hiệu quả bằng khái niệm hiệu quả kỹ thuật. Trong đó hiệu quả kỹ thuật được định nghĩa như sau: một vectơ đầu vào- đầu ra được xem là đạt hiệu quả về mặt kỹ thuật khi và chỉ khi, tăng bất kỳ đầu ra nào hoặc giảm bất kỳ đầu vào nào chỉ có thể bằng cách giảm một số đầu ra khác hoặc tăng một số đầu vào khác. Farrell (1957) và Charnes và Cooper (1985) tiếp tục phát triển định nghĩa này theo dạng tương đối. Tương đối được hiểu là so sánh với những đơn vị đạt được năng suất tốt nhất trong nhóm quan sát. Bên cạnh đó, khái niệm hiệu quả kỹ thuật cũng được bóc tách thành hiệu quả kỹ thuật thuần (pure technical efficiency) và hiệu quả theo quy mô (scale efficiency). Nói cách khác, một công ty đạt được hiệu quả kỹ thuật khi vừa đạt được hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả theo quy mô.
Debreu (1951) tiếp tục phát triển khái niệm hiệu quả kỹ thuật bằng việc đưa ra chỉ tiêu đo lường là Hiệu quả hoạt động (OE). Phương pháp là một phép đo xuyên tâm (radial measure) đối với hiệu quả kỹ thuật. Phương pháp đo xuyên tâm dựa trên cơ sở tối thiểu hóa ở tỷ lệ tương đồng trong đồng loạt tất cả các biến đầu vào, hoặc tối đa hóa ở tỷ lệ tương đồng trong đồng loạt tất cả đầu ra. Chỉ tiêu này không có đơn vị đo.
Farrell (1957) đã tiếp tục mở rộng chỉ tiêu OE bằng cách bổ sung thành phần thứ 2 bên cạnh hiệu quả kỹ thuật là hiệu quả phân bổ. Hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng của tổ chức trong việc lựa chọn vectơ đầu vào - đầu ra “đúng” về mặt kỹ thuật dựa trên giá cả đầu vào và đầu ra phổ biến. Theo đó, Farrell xác định OE là tổng của hiệu quả kỹ thuật và phân bổ. Tuy nhiên Farrell cũng cho rằng sẽ rất khó để một công ty có thể xác định được chính xác giá của đầu vào và đầu ra. Do đó các đánh giá phân tích OE của tổ chức thường tập trung vào xác định hiệu quả kỹ thuật.
Trên cơ sở các lập luận đó, O’Donnell (2012) đã tổng hợp và xác định hiệu quả hoạt động (OE) của một công ty sẽ bao gồm 3 cấu phần:
Hiệu quả kỹ thuật thuần: về mặt toán học, nó là phép chia giữa tổng sản phẩm đầu ra thực tế và tổng sản phẩm đầu ra tối đa có thể đạt được (với giả định là vẫn giữ nguyên cơ cấu sản phẩm đầu ra như thực tế) với cùng các yếu tố đầu vào. Hiệu quả kỹ thuật thuần thể hiện hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Nó thể hiện việc ngân hàng có thể sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào như nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, tài sản cố định… để tạo ra tối đa các sản phẩm, dịch vụ (với giả định là cơ cấu sản phẩm, dịch vụ không thay đổi). Từ “kỹ thuật” hàm ý đo lường phương thức