phê phán là chỉ hướng đến việc thoả mãn những nhu cầu của giám đốc điều hành và các cổ đông lớn mà không chú trọng đến nhu cầu chính đáng của nhân viên, khách hàng, hoặc môi trường làm việc.
2.1.5.2. Lý thuyết các bên có liên quan
Quản trị công ty chia các nhóm liên quan thành hai nhóm chính: bên trong và bên ngoài công ty. Nhóm bên ngoài công ty gồm: cổ đông, chủ nợ, nhà cung cấp, nhà cung cấp cho trả chậm, khách hàng và cơ quan quản lý. Nhóm bên trong hay còn gọi là nhóm nội bộ công ty gồm: ban điều hành, nhân viên và HĐQT của công ty. Tất cả các bên tham gia đều nằm trong quá trình giám sát hiệu quả hoạt động của công ty hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau và với các mục tiêu khác nhau. Theo Barger (2004), bên liên quan trực tiếp và đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý công ty để đảm bảo tất cả các mục tiêu của công ty được hoàn thành và tài sản của cổ đông đạt được mức tối đa là: các cổ đông, HĐQT và nhân sự quản lý cao cấp tham gia điều hành công ty hàng ngày thường được gọi là Giám đốc điều hành hoặc Ban điều hành.
Tuy vậy, một khái niệm về QTCT khác chỉ ra rằng công ty không chỉ đơn thuần là một cỗ máy đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà còn là một tổ chức xã hội có nhiều mục đích khác hơn là mục đích phục vụ cổ đông (Đào Thị Thanh Bình, 2012). Định nghĩa truyền thống của các bên liên quan là “bất kì nhóm hay cá nhân nào mà có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc hoàn thành mục tiêu của công ty” (Freeman 1984). Ý tưởng chung cho khái niệm về các bên liên quan là việc định nghĩa lại công ty là gì. Khái niệm này xoay quanh vấn đề công ty là gì và hoạt động của công ty cần thực hiện như thế nào.
Theo Friedman (2006), “doanh nghiệp nên được xem là nơi tổng hòa của các bên liên quan và mục đích của doanh nghiệp là quản lý lợi ích, nhu cầu và quan điểm của họ dựa trên một số nguyên tắc đạo đức. Việc quản lý các cổ đông được coi như là công việc của nhà quản lý công ty”. Theo cách hiểu này, nhà quản lý thực hiện hai công việc sau: thứ nhất, quản lý công ty vì lợi ích, quyền lợi cũng như đảm bảo các bên liên quan duy trì lợi ích có quyền quyết định nhất định; thứ hai, phải
hành động như một người đại diện của cổ đông để đảm bảo công ty tồn tại cũng như đảm bảo được quyền lợi của các nhóm có liên quan.
Có 3 cách tiếp cận lý thuyết các bên liên quan: mô tả / thực tiễn, mang tính công cụ, và chuẩn tắc (Đào Thị Thanh Bình, 2012). Cụ thể: hướng thứ nhất (mô tả/ thực tiễn) hướng đến việc tìm hiểu cách thức ứng xử của nhà quản lý và các bên liên quan khác và quan điểm của họ đối với hành động và vai trò của họ. Hướng thứ hai, hướng mang tính công cụ hướng đến việc tìm hiểu nhà quản lý nên xử lý như thế nào nếu như họ muốn được hỗ trợ và đạt lợi ích của chính họ. Trong một số nghiên cứu, lợi ích cá nhân được hiểu như là lợi ích của công ty và lợi ích này chính là tối đa hóa lợi nhuận hoặc tối đa hóa tài sản cổ đông. Điều này có nghĩa là nếu nhà quản lý đối xử với các bên liên quan phù hợp với lý thuyết về các bên liên quan thì công ty sẽ phát triển thành công trong dài hạn. Tuy nhiên, Donaldson và Preston (1995) cho rằng các cách tiếp cận lý thuyết về các bên liên quan mặc dù khá khác nhau, nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau và cơ sở lý thuyết chuẩn tắc đóng vai trò quan trọng cho lý thuyết này.
2.1.5.3. Lý thuyết về nhà quản lý
Ý tưởng chính của lý thuyết nhà quản lý là phản ánh quan niệm về bổn phận và trách nhiệm đối với người khác dựa trên việc duy trì mối quan hệ giao ước. Theo như Penner, Dovidio, Piliavin và Schroeder (2005) thì các hành vi quản lý là một loại hành động xã hội nhằm mục đích ảnh hưởng tích cực lên người khác.
Có thể thấy, hầu hết các lý thuyết về quản trị công ty bắt nguồn từ lợi ích cá nhân. Tuy vậy, lý thuyết về nhà quản lý lại không đề cao lợi ích cá nhân.
Trong khi “lý thuyết người đại diện” giả định rằng các nhà quản lý làm việc nhằm cải thiện vị trí của chính họ; Hội đồng quản trị tìm cách kiểm soát nhà quản lý và do đó, cần phải thu hẹp khoảng cách giữa hai đối trọng này, thì lý thuyết về nhà quản lý lại chỉ ra rằng nhà quản lý còn tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích về kinh tế như: vị trí xã hội, lòng trắc ẩn, danh tiếng tốt, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cảm giác hài lòng về công việc và ý thức được làm việc vì mục đích tốt đẹp.
“Lý thuyết về nhà quản lý” cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý tự họ muốn làm tốt công việc, tối đa hóa lợi nhuận của công ty và đem lại lợi nhuận tốt cho các cổ đông. Họ không nhất thiết làm việc này vì lợi ích tài chính của họ, mà họ cảm thấy có một trách nhiệm cao cả đối với công ty. Khi một công ty thực hiện quản trị theo trường phái này thì một số chính sách sẽ tự nhiên được thiết lập. Các công ty cần mô tả cụ thể vai trò của nhà quản lý và mong đợi của họ đối với các nhà quản lý. Các mong đợi này cần phải hướng đến việc đạt được mục tiêu công ty và khơi gợi được ý thức của nhà quản lý về khả năng và giá trị của họ.
Lý thuyết về nhà quản lý cũng ủng hộ các nhà quản lý thực thi như lý thuyết người đại diện, lý thuyết những người có liên quan, đồng thời chủ động thực hiện các mục tiêu của bản thân.
2.1.5.4 Thang đo quản trị công ty
Như đã nói phần trên, thuật ngữ “quản trị công ty” ban đầu liên quan tới vấn đề “người đại diện”. Ở cấp công ty, “người đại diện” là người sở hữu nhưng không đồng thời quản lý công ty đó. Theo nghĩa này, quản trị công ty khởi nguồn từ khu vực tư nhân và điều được quan tâm là mối quan hệ giữa cổ đông với công ty. OECD (2004) đưa ra khái niệm rộng hơn về quản trị, được hiểu là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, ban giám đốc, cổ đông và những bên liên quan. Quản trị công ty, vì vậy, sẽ là cơ sở mà qua đó các mục tiêu của công ty được thiết lập và phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như việc kiểm soát kết quả hoạt động.
Quản trị cũng có thể được hiểu theo một cách khác, như các cách thức mà một tổ chức ứng xử với các bên liên quan. Theo cách này, “quản trị có thể được xem xét theo hai khía cạnh là quản trị bên trong và quản trị bên ngoài công ty” (World Bank, 1999). Quản trị bên ngoài công ty là cách thức ứng xử với các chủ thể bên ngoài như chủ nợ, nhà cung ứng và những chủ thể khác bên ngoài tổ chức; quản trị bên trong công ty tập trung vào ban giám đốc và lợi ích của các cổ đông.
Quản trị công ty vì vậy được đại diện bởi nhiều biến với nhiều cách thức khác nhau. Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đều sử dụng các thước đo liên quan tới quản trị bên trong công ty. Chẳng hạn, Edward và Clough (2005) đã tổng hợp các thước đo về quản trị công ty trong các nghiên cứu trước, các luật định về quản trị công ty gồm có: quy mô ban giám đốc; sự tách biệt giữa chủ tịch và CEO (tính nhị nguyên); thành viên HĐQT độc lập; sự cân bằng kỹ năng và năng lực của giám đốc; ban kiểm soát và các ban khác. Edward và Clough (2005) cũng rà soát các thước đo về quản trị bên ngoài công ty như: hoạt động của HĐQT, quá trình bổ nhiệm minh bạch, giải trình với các nhà đầu tư. Một số nghiên cứu (Võ Đức và Phan Thúy, 2013) sử dụng nữ thành viên Hội đồng quản trị và trình độ giáo dục của thành viên Hội đồng quản trị như là các biến đại diện cho quản trị. Một số nghiên cứu khác (Bhagat và Bolton, 2008) sử dụng vốn sở hữu và giá trị tài sản của thành viên Hội đồng quản trị là các biến đại diện cho quản trị. Tác giả Lê Quang Cảnh và cộng sự (2015), lại dùng thang đo gồm: qui mô Hội đồng quản trị, tính kiêm nhiệm giữa chủ tịch và giám đốc điều hành, giới tính của CEO, các thành viên độc lập của Hội đồng quản trị và qui mô của Hội đồng quản trị làm thước đo cho biến quản trị công ty. Một nghiên cứu khác của Đào Thị Thanh Bình và cộng sự (2012) lại dùng các biến như: số lượng thành viên Hội đồng quản trị, tỉ lệ quyền sở hữu nước ngoài, đặc điểm và thành phần Hội đồng quản trị làm thước đo cho quản trị công ty.
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2015) cũng lựa chọn cấu trúc sở hữu trong đó có biến sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài là một trong những thang đo quản trị công ty. Các nghiên cứu về quyền sở hữu của Gursory và Aydogan (2002); Rokwaro (2013); Anstoniasidis (2010); Peong (2012) cũng có cùng thước đo như trên nhưng thêm thước đo cổ đông lớn đối với quản trị công. Trong nghiên cứu khác của Adams và Fereira (2007); Đoàn Hồng Phúc và Lê Văn Thông (2014) các tác giả này cũng xây dựng các thước đo về quản trị công ty gồm nhiều biến trong đó biến kinh nghiệm của Hội đồng quản trị là một trong những thước đo được sử dụng.
Theo một cách khác, quản trị có thể được đo lường bằng các chỉ số tổng hợp. Chẳng hạn, Gom- pers, Ishii, và Metrick (2003) xây dựng chỉ số G- index là một chỉ số tổng hợp từ 24 biến, theo đó chỉ số G-index càng lớn sẽ biểu thị sự hạn chế nhiều hơn đối với quyền của cổ đông. Một chỉ số tổng hợp khác được biết tới là chỉ số E- index. Chỉ số này được Bebchuk, Cohen, và Ferrell (2009) xây dựng dựa trên 6 biến trong 24 biến tạo thành chỉ số G- index. Quyền hạn của cổ đông càng thấp nếu chỉ số này càng lớn. Những chỉ số này được xem là quản trị bên ngoài công ty và thường được sử dụng để đánh giá tác động của quản trị tới kết quả hoạt động của công ty. Tuy vậy, những chỉ số này ít được sử dụng vì khó thu thập số liệu để tính toán (Cremers và Nair, 2005). Chính vì vậy, các thước đo riêng lẻ thường được sử dụng nhiều hơn trong các phân tích thực nghiệm về quản trị và kết quả hoạt động của công ty.
Từ những tổng kết về các thước đo quản trị công ty như đã nêu trên, tác giả sẽ sử dụng tám thước đo gồm:
- Quy mô hội đồng quản trị
- Số lượng nữ giới trong hội đồng quản trị
- Trình độ học vấn của hội đồng quản trị
- Kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị
- Số lượng thành viên độc lập của hội đồng quản trị
- Cổ đông lớn
- Sở hữu nhà nước
- Sở hữu nước ngoài
Đây là các thước đo đại diện cho quản trị công ty ngân hàng. Trong nghiên cứu này của mình, tác giả sử dụng các thước đo riêng lẻ để tiến hành phân tích tác động của quản trị tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Bảng 2.3: Các thước đo quản trị công ty
Tên nhân tố | Ý nghĩa | Cách tính | |
1 | Broad size | Thành viên HĐQT | Số lượng thành viên thuộc HĐQT |
2 | Gender | Thành viên nữ thuộc HĐQT | Số lượng thành viên là nữ thuộc HĐQT |
3 | Edu | Trình độ của HĐQT | Thành viên có trình độ sau đại học |
4 | Board Age | Kinh nghiệm làm việc của thành viên HĐQT | Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT |
5 | Block | Cổ đông lớn | “1” nếu tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các cổ đông lớn hơn 5% (không tính số cổ phiếu thuộc nhà nước) và “0” nếu ngược lại |
6 | State | Quyền sở hữu của nhà nước | “1” nếu nhà nước làm chủ và “0” nếu ngược lại |
7 | Fown | Sở hữu nước ngoài | Tỷ lệ % sở hữu |
8 | Outdir | Số lượng thành viên độc lập của hội đồng quản trị | Số lượng thành viên Chú ý có thể tính bằng % độc lập trên tổng số thành viên |
Có thể bạn quan tâm!
- Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Một Số Mô Hình Quản Trị Công Ty Trên Thế Giới
- Sự Khác Biệt Giữa Quản Trị Công Ty Ngân Hàng Và Công Ty Khác
- Ảnh Hưởng Của Thông Tin Bất Đối Xứng
- Tổng Quan Về Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Và Phương Pháp Đo Lường
- Mối Quan Hệ Giữa Quản Trị Công Ty Và Thông Tin Bất Đối Xứng
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tác giả )
2.2. Tổng quan về thông tin bất đối xứng
2.2.1. Khái niệm về thông tin bất đối xứng
Thông tin bất đối xứng, đôi khi được gọi là thất bại thông tin, có mặt bất cứ khi nào một bên giao dịch kinh tế có thông tin đầy đủ hơn bên kia. Các mô hình lý thuyết thông tin trong thị trường tài chính liên quan đến hai loại đối tượng: những đối tượng có lợi thế thông tin và những đối tượng không có lợi thế thông tin; điều
này thường biểu hiện khi người bán một hàng hóa hay dịch vụ có kiến thức nhiều hơn người mua hoặc người đi vay hiểu rõ về khả năng trả nợ của mình so với ngân hàng. Thông tin bất đối xứng đóng một vai trò quan trọng trong việc kết hợp giữa lý thuyết kinh tế cổ điển với hành vi kinh tế quan sát. Mức độ bất đối xứng thông tin và những ảnh hưởng thông tin bất đối xứng gần như xảy ra trong mọi quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp lựa chọn bất lợi hoặc rủi ro đạo đức. Do đó, thông tin bất đối xứng là một trong những vấn đề cơ bản nhất được nhà kinh tế hiện đại nghiên cứu. Đặc biệt, thông tin bất đối xứng được chú ý nhiều hơn nữa trong lĩnh vực tài chính bởi vì một trong những điểm quan trọng nhất trong hoạt động thị trường tài chính là hoạt động thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin khác nhau về giá cả thị trường. Do đó, việc nhận biết ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng về sự tương tác giữa các chủ thể có vai trò quan trọng đối với việc hiểu biết về cách thức, kết quả, hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính.
Solomon (2004) cho rằng các nhà quản lý có đầy đủ thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty, tuy nhiên các nhà quản lý thường không cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư. Việc tìm kiếm các thông tin cần thiết của các nhà đầu tư thường bao gồm thông qua kênh chính thức như báo cáo tài chính và các kênh phi chính thức như tham gia các diễn đàn trao đổi thông tin, thuê tư vấn tài chính. Tuy nhiên, những thông tin trên các diễn đàn và ý kiến của tư vấn tài chính lại bắt nguồn từ chính báo cáo tài chính mà công ty cung cấp. Như vậy xảy ra trường hợp là các nhà đầu tư phụ thuộc phần lớn vào việc công bố thông tin của công ty, điều này sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm khi thông tin được cung cấp không chính xác, hoặc không đầy đủ.
Điều này có nghĩa các đối tượng cùng giải quyết một vấn đề, cùng tham gia một thị trường nhưng một bên giao dịch có các thông tin liên quan trong khi bên kia không có hoặc không có đầy đủ. Nguyên nhân của điều này có thể do các lý do sau: thứ nhất, nguồn thông tin khác nhau; thứ hai thời điểm tiếp nhận thông tin khác nhau; thứ ba, do trình độ xử lý thông tin khác nhau của các bên nhận được các luồng thông tin. Thông tin bất đối xứng là nguyên nhân dẫn đến thị trường kém hiệu quả.
2.2.2. Các hình thức thông tin bất đối xứng
Trong thị trường tài chính nói chung và thị trường ngân hàng nói riêng, thông tin bất đối xứng được biểu hiện thông qua: (1) lựa chọn đối nghịch, (2) tâm lý ỷ lại và (3) chi phí giám sát.
Khi thông tin bị che đậy thì lựa chọn đối nghịch sẽ xảy ra và nó có trước khi thực hiện một giao dịch trên trên thị trường. Trong trường hợp này, một bên sẽ phải quyết định thực hiện giao dịch dựa trên thông tin bất đối xứng. Điều này sẽ dẫn đến lợi ích của bên có được thông tin nhiều hơn sẽ có lợi ích nhiều hơn so với các bên khác.
“Tâm lý ỷ lại” là hiện tượng một bên đối tác che đậy hành vi sau khi ký kết hợp đồng giao dịch dẫn đến việc tuân thủ không đúng hợp đồng giao dịch tạo bất lợi cho một bên khác. Với các hợp đồng vay ngân hàng thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ phía bên đi vay. Việc bên đi vay nhận được số tiền giải ngân của ngân hàng nhưng không thực hiện đúng các thông tin đã cung cấp trong hồ sơ đi vay mà thực hiện các mục đích riêng, có thể là tìm kiếm một phương án kinh doanh có mức sinh lời cao hơn, hoặc thậm chí đi gửi ngân hàng khác hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn lãi suất đi vay cố định. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, tuy nhiên mức độ rủi ro rất cao khi không thu hồi được vốn để trả ngân hàng đúng hạn. Trong khi đó, các đơn vị, chi nhánh ngân hàng đã hoàn thành việc thẩm định dự án và cho vay, nhưng không có đơn vị giám sát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp, hoàn toàn phụ thuộc vào tính ràng buộc của hợp đồng vay. Với nhận thức như vậy, trong một giai đoạn nhất định, ngân hàng thừa vốn không sẵn lòng để cung cấp vốn cho người đi vay, dẫn đến khả năng thanh khoản bị ảnh hưởng, niềm tin với doanh nghiệp giảm.
“Chi phí giám sát” có liên quan chặt chẽ đến hành động không công khai của người đi vay. Do có lợi thế biết rõ thông tin về hoạt động của mình, trong một số trường hợp, người đi vay có thể công bố thông tin không đúng sự thật nhằm mục đích đem lại lợi ích cho bản thân, gây thiệt hại cho người cho vay. Chính vì vậy, người cho vay buộc phải có cơ chế giám sát người đi vay. Và việc giám sát này làm phát sinh một khoản chi phí nhất định được gọi là chi phí giám sát. Đó là chi phí thuê mướn các kiểm toán viên thực hiện việc giám sát này thay cho người cho vay