Mỹ - Anh | Đức (Châu Âu) | Nhật Bản | ||
Chiến lược | Chiến lược cạnh tranh, tập trung vào thị trường và lợi nhuận | Chiến lược tập trung vào chất lượng | ||
Hành vi | Xu hướng tiếp cận ngắn hạn | Xu hướng tiếp cận dài hạn | ||
Tăng trưởng | Thông qua mua bán, sáp nhập và tăng trưởng nội sinh | |||
Cung cấp tài chính | - Xu hướng nợ thấp - Xu hướng giảm nợ/ vốn chủ sở hữu - Sử dụng các công cụ tài chính đa dạng và phức tạp | - Xu hướng nợ cao - Xu hướng nợ trên vốn chủ sở hữu cao - Ít sử dụng các công cụ tài chính phức tạp | ||
Định hướng quản lý | - Hỗ trợ lợi ích cổ đông - Tập trung vào tăng trưởng giá trị cổ phiếu | - Hỗ trợ các đối tượng liên quan (cổ đông, chủ nợ….) - Tập trong vào đảm bảo giá trị cho các đối tượng liên quan | ||
Kiểm soát | - Chia tách giữa sở hữu và quản lý - Giảm động lực đối với nhà đầu tư tham gia quản lý | - Phối hợp giữa kiểm soát và quản lý - Quản lý bởi các đối tượng có liên quan (ngân hàng, công ty, cổ đông) | ||
Hạn chế | - Dễ gây đổ vỡ - Thâu tóm dẫn đến độc quyền - Các nhà quản lý có thể thực hiện các hoạt động vì lợi ích cá nhân | - Chậm thay đổi - Hệ thống có thể tạo ra xung đột | Khó thay đổi và thích nghi với cơ chế mới |
Có thể bạn quan tâm!
- Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Một Số Mô Hình Quản Trị Công Ty Trên Thế Giới
- Các Thước Đo Quản Trị Công Ty
- Ảnh Hưởng Của Thông Tin Bất Đối Xứng
- Tổng Quan Về Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Và Phương Pháp Đo Lường
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác
Nguyên nhân có sự khác biệt giữa QTCT ngân hàng và các công ty khác là do sự tác động bởi sáu điểm khác biệt giữa hai loại hình công ty này gồm: (1) quy mô ảnh hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính; (2) hoạt động ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính; (3) hoạt động của ngân hàng chịu tác động bởi nhiều qui tắc; (4) cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính; (5) thông tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng nghiêm trọng hơn các loại hình công ty khác và (6) tính chất phức tạp trong các hoạt động ngân hàng.
Quy mô ảnh hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính
Quản trị công ty trong ngân hàng và lĩnh vực tài chính khác biệt với lĩnh vực phi tài chính bởi vì mức độ tác động và gây ra rủi ro đối với nền kinh tế của ngân hàng là rất lớn. Không giống như lĩnh vực phi tài chính, việc mất kiểm soát hệ thống ngân hàng có thể gây ra đổ vỡ không chỉ một ngân hàng mà còn kéo theo cả hệ thống tài chính và tác động đến cả nền kinh tế. Sự thất bại của họ có thể có những hậu quả nghiêm trọng hơn do vị trí duy nhất của họ trong vai trò trung gian tài chính và hệ thống thanh toán. Vì vậy, hoạt động của ngân hàng cần thiết phải nằm trong một giới hạn quản trị nhất định và cơ chế để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng liên quan chính là quản trị công ty
Hoạt động ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính
Theo Acharya (2010) và Laeven (2012) thì các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường và tỷ lệ đòn bẩy điển hình của một ngân hàng là khoảng 10. Đây là tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với hầu hết các công ty phi tài chính. Shleifer và Vishny (1997) cho rằng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng dựa trên tiền gửi của người dân, công ty, tổ chức (gọi chung là người gửi tiền) và chính vì điều này đã tạo ra động lực cho ngân hàng chấp nhận rủi ro hơn so với các công ty phi tài chính. Việc càng chấp nhận rủi ro sẽ tạo ra lợi nhuận lớn hơn, trong khi nếu hoạt động thất bại, phần lớn chi phí mất đi sẽ đổ lên đầu người gửi tiền.
Mặc dù người gửi tiền có một cơ chế để tự bảo vệ, đó là hệ thống bảo hiểm tiền gửi, nhưng chính hệ thống này đã tạo ra mặt trái của nó. Thứ nhất, người gửi tiền sẽ không tìm kiếm một cơ chế để kiểm soát hoạt động của ngân hàng và trong thực tế họ cũng không có đủ thông tin để tham gia vào quá trình kiểm soát này do tính bất đối xứng thông tin cao. Người gửi hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống bảo hiểm tiền gửi để tự bảo vệ mình khi có tình huống xấu xảy ra vì cơ bản họ ít nhạy cảm với hoạt động của ngân hàng. Thứ hai, khi có hệ thống bảo hiểm, ngân hàng yên tâm hơn trong việc chấp nhận rủi ro trong kinh doanh ở mức cao mà không sợ chịu trách nhiệm lớn khi đổ vỡ. Trong hầu hết các trường hợp, rủi ro sẽ chuyển cho xã hội và người gửi tiền khi có đổ vỡ. Vì vậy, các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường.
Quy tắc về hoạt động của ngân hàng nhiều hơn so với doanh nghiệp khác
Các ngân hàng hoạt động trên cơ sở các điều lệ, qui định riêng, được giám sát bởi các cơ quan quản lý nhà nước chuyên biệt như Ngân hàng Trung ương, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia… Đồng thời, tham gia giám sát hoạt động của ngân hàng còn có các nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán do ngân hàng phát hành và người gửi tiền vào ngân hàng. Nói cách khác, sự giám sát của các bên đòi ngân hàng phải hoạt động với tính kỷ luật thị trường rất cao.
Hầu hết các quốc gia đều thực hiện các qui định đối với người có khối lượng cổ phần lớn ở ngân hàng. Đối với một số cổ đông, các qui định này ngăn cản họ trở thành các cổ đông chi phối. Điều này sẽ ngăn cản các cổ đông chi phối thực hiện các hoạt động phục vụ lợi ích của họ thay vì lợi ích của số đông cổ đông. Một ví dụ cụ thể là các ngân hàng được nắm bởi một số cổ đông chi phối, có thể là cá nhân, tổ chức hoặc nhà nước, thực hiện các hoạt động cho vay sân sau đối với các công ty có quan hệ với các cổ đông lớn hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh không minh bạch, nhiều rủi ro nhưng ít bị kiểm soát.
Có thể thấy rằng ngân hàng có một số đặc tính đặc biệt so với các công ty thông thường. Do đó đòi hỏi cơ chế quản trị cũng phức tạp hơn và rõ ràng hơn như giám sát đội đồng quản trị, cơ chế thị trường kiểm soát… Ngân hàng là một định
chế tài chính mà mỗi bên liên quan đều có vai trò riêng biệt. Họ gồm các cổ đông, người gửi tiền, chủ nợ, thành viên hội đồng quản trị, nhà quản lý, cơ quan bảo hiểm tiền gửi, nhân viên, người nộp thuế… và tất cả các các bên liên quan này đều có lợi ích cụ thể của mình. Do đó, lợi ích của tất cả các bên phải được đảm bảo chứ không chỉ đảm bảo lợi ích của mỗi cổ đông. Để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên phải có một cơ chế cụ thể, đó chính là hệ thống quản trị công ty.
Cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính
Một trong những đặc điểm chính phân biệt ngân hàng với các công ty phi tài chính khác là cấu trúc vốn. Theo Macey và O'Hara (2003) ngân hàng hiện 2 tính năng đặc biệt là vốn và khả năng thanh khoản. Về hai tính năng này có một số điểm để phân biệt giữa giữa ngân hàng và công ty phi tài chính.
Thứ nhất, về khía cạnh quản lý, Luật các tổ chức tín dụng (2012) qui định “Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo qui định của ngân hàng Nhà nước”. Một số khoản nợ vay dài hạn gồm: vay chính phủ dài hạn, phát hành trái phiếu dài hạn… Đây là đặc trưng khác nhau giữa tổ chức tài chính và doanh nghiệp thông thường.
Thứ hai, một yếu tố khác liên quan đến vốn của ngân hàng là khả năng thanh khoản. Việc lựa chọn khách hàng cho vay còn phụ thuộc vào khả năng kinh doanh và trả nợ của khách hàng đó, ngay cả kỳ hạn cho vay của các khoản vay, kỳ hạn huy động… cũng phải cân nhắc phù hợp với tổng cho vay và tổng lượng tiền huy động và vốn chủ sở hữu để đảm bảo tính thanh khoản. Việc đó đòi hỏi ngân hàng phải có đủ khả năng tiếp cận nguồn vốn khả dụng ở mức hợp lý và đúng thời điểm cần thiết. Điều này có nghĩa là ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay hoặc có thể tăng thêm bằng cách vay mượn hoặc bán bớt một số tài sản mà ngân hàng đang có.
Thứ ba, do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, việc nhà đầu tư tìm kiếm một ngân hàng khác hoặc đầu tư vào một lĩnh vực khác hoàn toàn có thể xảy ra nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn hoặc tìm một kênh trú ẩn an toàn. Bên cạnh đó, các khách hàng vay
tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và chờ đợi biến động giảm của lãi suất, chính sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng tới cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay tiền và điều này đều tác động trực tiếp đến nguồn vốn của ngân hàng và khả năng thanh khoản.
Chính sự khác biệt rất lớn về vốn và tính thanh khoản của ngân hàng với công ty phi tài chính đã tạo nên sự khác biệt về quản trị công ty đối với hai đối tượng này
Thông tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng nghiêm trọng hơn các loại hình công ty khác
Levine (2004) cho rằng một vấn đề luôn tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng cần có cơ chế để quản lý đó là “tính mờ”. Tính mờ này tạo ra sự phức tạp trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có thể thay đổi thành phần rủi ro của tài sản một cách nhanh chóng hơn so với hầu hết các ngành phi tài chính và họ có thể dễ dàng che dấu các vấn đề bằng các mở rộng các khoản vay cho khách hàng. Điều này dẫn đến một vấn đề nguy hiểm là các hoạt động thay đổi thành phần rủi ro này rất khó giám sát đối với bên ngoài nhưng rất dễ thực hiện đối với ngân hàng. Hệ quả là minh bạch thông tin luôn là vấn đề lớn trong quản trị công ty tại ngân hàng.
Sở dĩ có vấn đề trên vì trong hoạt động ngân hàng cần có một sự bảo mật thông tin nhất định. Các nghiên cứu về quản trị công ty của ngân hàng sau khủng hoảng tài chính 2008 đã chứng minh rằng kiểm soát chất lượng các khoản vay ngân hàng khó khăn hơn rất nhiều so với kiểm soát chất lượng tài sản của các ngành phi tài chính khác do tài sản của công ty nói chung có thể kiểm soát được bởi bên thứ ba. Sự bất đối xứng về thông tin không chỉ tồn tại giữa chủ sở hữu và nhà quản lý ngân hàng mà còn tồn tại giữa chủ sở hữu, người đi vay, người gửi tiền, nhà quản lý và cơ quan giám sát. Vì vậy thông tin bất đối xứng luôn tồn tại trong hoạt động ngân hàng do đặc điểm của vốn có của định chế tài chính này dù nhà quản lý muốn hay không.
Hoạt động phức tạp hơn so với các loại hình khác
Hoạt động của ngân hàng không chỉ liên quan đến các khoản vay mà còn liên quan đến các sản phẩm phức tạp khác như Chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản, Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng... Đó là những khó khăn không chỉ cho người ngoài (bên thứ ba) khi đánh giá chất lượng và mức độ rủi ro của hoạt động của ngân hàng, mà còn cho các ngân hàng để phân tích rủi ro của ngân hàng khác. Người gửi tiền, cổ đông và cơ quan quản lý đều liên quan đến sự vững mạnh của các cơ chế quản trị công ty trong ngân hàng và làm cho việc phân tích quản trị công ty của các ngân hàng phức tạp hơn các cổ ty phi tài chính (Casu, 2016). Như vậy, đối với các ngân hàng, quản trị công ty cần phải được coi là nhiệm vụ sống còn, buộc các nhà quản lý của ngân hàng phải bảo vệ lợi ích tốt nhất của tất cả các bên liên quan. Một cơ chế công bằng, minh bạch và trách nhiệm là mục tiêu chính của quản trị công ty trong ngân hàng giúp khuyến khích sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan. Việc giữ ổn định hệ thống ngân hàng, tránh đổ vỡ là hết sức cần thiết, đòi hỏi công tác quản trị trong tất cả lĩnh vực của hệ thống phải hiệu quả, chặt chẽ.
2.1.5. Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty
2.1.5.1 Lý thuyết người đại diện
Quản trị công ty được xây dựng và phát triển trên lý thuyết được cho là nguồn gốc và phổ biến là lý thuyết người đại diện. Theo lý thuyết này, “người đại diện” là người sở hữu công ty nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý. Do đó, quản trị công ty là cách thức hệ giải quyết mối quan hệ giữa cổ đông và hoạt động của công ty. OECD (2004) đã đưa ra định nghĩa về QTCT mang nghĩa rộng hơn; OECD (2004) cho rằng QTCT là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, các cổ đông, ban giám đốc và các bên có liên quan. QTCT sẽ là cơ sở để thiết lập các mục tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như kiểm soát các kết quả hoạt động.
Theo lý thuyết người đại diện, các cổ đông là chủ sở hữu của công ty sẽ trao quyền quyết định điều hành các công việc hằng ngày cho Hội đồng quản trị. Ở đây, vấn đề nảy sinh ở việc tách biệt giữa quyền kiểm soát và quyền sở hữu. Điều này có thể dẫn đến việc lợi ích của chủ sở hữu có thể bị ảnh hưởng bởi những hành động tự ý trong công việc của người đại diện.
Trong thực tế có những thành viên Hội đồng quản trị điều hành các hoạt động của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn các mục đích cá nhân hơn là đảm bảo quyền lợi của cổ đông (James và Houston,1995). Bản chất của lý thuyết người đại diện là tạo ra một cơ chế đảm bảo sự liên kết hiệu quả lợi ích của hai bên có liên quan (sở hữu và điều hành), do đó sẽ làm giảm chi phí ủy quyền (Shankman, 1999). Theo như Jensen và Meckling (1976), chi phí ủy quyền bằng tổng của các chi phí sau: thứ nhất, các chi phí chi ra bởi người ủy quyền gồm chi phí khuyến khích, giám sát, và chi phí thi hành; thứ hai, chi phí ủy quyền nhằm luôn đưa ra tín hiệu là nhà quản lý cần hành động vì lợi ích của người ủy quyền hay còn được gọi là chi phí liên kết; cuối cùng là chi phí tổn thất do sự khác biệt giữa kết quả thực tế do các quyết định của người đại diện mang lại và kết quả mong muốn tối đa hóa lợi ích của người ủy quyền.
Theo như tác giả Đào Thị Thanh Bình (2012), lý thuyết người đại diện có ba giả thiết chủ yếu sau:
Thứ nhất, các thị trường bình thường /cạnh tranh
Thứ hai, các mối quan hệ của thông tin bất đối xứng là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà quản lý.
Thứ ba, cấu trúc vốn tối ưu đòi hỏi phải tận dụng đòn bẩy tài chính.
Bảng 2.2: Lý thuyết người đại diện
Ý tưởng chính | Mối quan hệ giữa người ủy quyền và người đại diện cần phản ánh được tính hiệu quả của thông tin và chi phí. |
Cở sở phân tích | Hợp đồng giữa người người ủy quyền và người đại diện |
Các giả định chính cho người ủy quyền | Lợi ích, tính hợp lý có khuôn khổ, và độ ngại rủi ro |
Giữa các thành viên có xung đột về mục tiêu | |
Hiệu quả được đem ra làm tiêu chí đánh giá | |
Các giả định chính cho doanh nghiệp | Thông tin giữa người ủy quyền và người đại diện có thể không trùng khớp |
Giả định cho thông tin | Thông tin được xem là mặt hàng có thể mua bán được |
Vấn đề hợp đồng | Hợp đồng ủy quyền (rủi ro về vi phạm quy chuẩn đạo đức và lựa chọn bất lợi). Chia sẻ rủi ro |
Các vấn đề chính | Các mối quan hệ theo đó người ủy quyền và người đại diện có sự bất tương đồng về mục tiêu và quan điểm về rủi ro (Ví dụ, chính sách thù lao, các qui định của công ty, vấn đề lãnh đạo, quản lý gây ấn tượng, rò rỉ thông tin, chính sách đa dạng hóa theo chuỗi giá trị, chi phí chuyển đổi) |
Nguồn: Eisenhard (1989) - trích bởi Đào Thị Thanh Bình (2012)
Lý thuyết người đại diện đã có rất nhiều ý tưởng giúp các công ty hoạt động được hiệu quả hơn. Tuy vậy cũng như nhiều lý thuyết khác, lý thuyết này cũng không thể tránh được những hạn chế xuất phát từ những giả định ban đầu của mình. Một trong những thiếu sót của lý thuyết người đại diện mà nhiều nhà nghiên cứu