Hệ thống biểu tượng trong thơ ca Tày hiện đại có sự mở rộng trường liên tưởng rất lớn. Sự thay đổi về đời sống xã hội tạo ra một tâm lý xã hội mới, cách nhìn, cách nghĩ mới. Chính điều này đã khiến những sáng tác văn học nghệ thuật có sự biến đổi rõ nét, không chỉ dừng lại ở sự ảnh hưởng mà là sự tiếp biến. Những sáng tác dân gian cho ta thấy được sự kết tinh “hồn cốt” của cả một dân tộc qua hàng ngàn thế hệ. Theo GS. Tô Ngọc Thanh thì tính đa dạng của văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ cơ cấu đa tộc người và đa nguồn văn hóa, những điều kiện lịch sử xã hội trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước là cơ sở cho quá trình vận động nội sinh của văn hóa các tộc người Việt Nam. “Các tộc người Việt Nam đều có chung một cơ tầng văn hóa cổ đại. Dẫu cho văn hóa không thể vạch thành ranh giới như các lãnh thổ hành chính, thì vẫn cứ phải nói đến một miền đất cụ thể, nơi con người sinh sống và sáng tạo” [81, tr.284]. Chính từ miền đất riêng ấy, cái sáng tạo được khơi nguồn phát triển và thăng hoa, cũng không ngoại trừ một quy luật rằng, cùng với thời gian, văn hóa liên tục phát triển, sáng tạo ra những giá trị mới, có thể kế thừa, thay thế hoặc phủ định một số giá trị đã lỗi thời.
Mỗi dân tộc, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm nghiệm những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc mình, đồng thời quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó, tiếp nối phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Nghiên cứu các công thức folklore cần phải tìm hiểu “cốt” văn hóa, dân tộc học và sự hình thành nghĩa của chúng” [61, tr.194]. Văn học dân tộc Tày đã phát triển khá vững mạnh, thực sự gia nhập vào quỹ đạo chung của văn học Việt Nam. Đồng thời với sự thay đổi về xu hướng sáng tác, những đối tượng được hướng đến cũng sẽ có những biến đổi nhất định. Khảo sát trong thơ một số tác giả trẻ như Vi Thuỳ Linh, Nông Thị Tô Hường… cho thấy một điều khá rõ, biểu tượng cũng tồn tại hai xu hướng hình thành và phát triển song song. Xu hướng rõ nhất là thay đổi theo chiều hướng mờ dần ý nghĩa, những biểu tượng Mẹ Hoa, lúa, đàn tính, con ngựa… rất hiếm khi xuất hiện; xu hướng thứ hai là những biểu tượng ấy vẫn được tiếp tục nhưng sự bồi đắp lớp nghĩa mới rất ít…
Nhìn chung, sự mới lạ trong nghệ thuật biểu hiện của thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay được thể hiện trên nhiều phương diện, từ thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu đến
cách sử dụng những biểu tượng văn hóa. Trong khi một số dân tộc thiểu số khác như H’mông, Dao, Mường, Thái... sự thành công trong hình thức biểu đạt chỉ có ở một số tác giả có phong cách sáng tạo rõ nét. Có thể kể đến Triệu Kim Văn (Dao), Lò Vũ Vân (Thái), Mã A Lềnh (H’mông), Vương Anh, Bùi Thị Tuyết Mai (Mường)... Văn học dân tộc Tày có được sự đa thanh, đa sắc trong những khám phá về cách thức biểu đạt. Ở Nông Quốc Chấn là sự ý thức tiến dần đến hiện đại hóa, Y Phương, Mai Liễu, Lương Định... thể hiện sự bứt phá và sáng tạo không ngừng; thế hệ trẻ hơn như Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Nông Thị Tô Hường, Vi Thùy Linh... sự đổi mới qua từng chặng sáng tác gần như là yếu tố tiên quyết, thậm chí có lúc là sự làm màu, dụng công cầu kì... Thơ dân tộc Tày có sự thể nghiệm ráo riết tất cả các thể loại như năm chữ, bảy chữ, lục bát, thơ văn xuôi, trường ca và đặc biệt là thơ tự do. Trong cái đa thể loại ấy, ngôn ngữ và giọng điệu được đặc biệt chú ý bởi nó thể hiện rất rõ sự đầu tư và cái tạng của mỗi nhà thơ. Hình thức biểu hiện của thơ dân tộc Tày thể hiện sự kế thừa và đổi mới truyền thống rất rõ. Đi từ cội nguồn đến những sáng tạo mới được minh chứng thành công nhất trong việc sử dụng những biểu tượng văn hóa tiêu biểu vốn ăn sâu vào tâm thức cộng đồng như Mẹ Hoa, đàn tính, cây lúa, con ngựa... Có thể thấy, hệ thống biểu tượng của dân tộc Tày đa dạng và phức tạp, gắn với “cốt” văn hóa dân tộc hết sức mật thiết, nó trải dài trên mọi bình diện, tạo nên một thế giới biểu tượng nhiều màu sắc, góp phần truyền tải những thông điệp sâu sắc về văn hóa, đời sống tâm tư, tình cảm của những con người miền núi, con người dân tộc Tày đến với mọi miền đất nước, đến với nhân loại.
Chương 4
MỘT SỐ PHONG CÁCH SÁNG TẠO
Có thể bạn quan tâm!
- Hệ Thống Biểu Tượng Trong Thơ Tày Từ 1945 Đến Nay
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 14
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 15
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 17
- Thơ Dương Thuấn - Khát Vọng Hướng Về Nguồn Cội
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 19
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
TRONG THƠ DÂN TỘC TÀY TỪ 1945 ĐẾN NAY
Trong văn học, phong cách nghệ thuật là “một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc” [33, tr.208]. Theo M.B. Khrapchenko, phong cách “cần phải được định nghĩa như phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh hình tượng đối với cuộc sống như phương thức thuyết phục và thu hút độc giả” [46, tr. 279]. Là khái niệm dùng để nhận diện một tác giả, một tác phẩm, một trào lưu, yếu tố quan trọng nhất của phong cách chính là sự sáng tạo độc đáo cùng những phẩm chất thẩm mỹ mà chủ thể bộc lộ trong quan hệ với đối tượng. M.Bakhtin khẳng định tính tích cực của chủ thể trong sáng hình thức, M. Prust, D.S. Likhachov cũng khẳng định cái nhìn mới là yếu tố căn bản của phong cách nghệ thuật. Phong cách là yếu tố vừa mang tính ổn định vừa có sự biến đổi không ngừng. Điều đó giúp ta nhận diện sự khác biệt giữa các tác giả đồng thời thấy được sự độc đáo không lặp lại của bản thân những sáng tác.
Các nhà thơ dân tộc Tày tuy có khác nhau về tuổi đời, tuổi nghề, sở trường, khả năng sáng tạo cũng như mức độ cống hiến... nhưng họ đều gặp nhau ở sự tâm huyết và nỗ lực tạo dựng cho mình một phong cách riêng. Tuy có sự mộc mạc, tự nhiên; có sự dụng công tạo dựng hình tượng; có sự triết lý khái quát... nhưng các nhà thơ dân tộc Tày đều cố gắng thể hiện tính dân tộc trong những sáng tác. Trong đội ngũ đông đảo các nhà thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay, Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn là ba phong cách độc đáo có khả năng đại diện cho thành tựu bề thế của thơ dân tộc Tày tính đến thời điểm hiện tại. Xem xét những đặc điểm trong cá tính sáng tạo của nhà văn, sự hoàn chỉnh nhận thức của nhà văn về cuộc sống, cách nhìn của nhà văn đối với thế giới trong hành trình sáng tạo của Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn, ta thấy được cái nguyên tắc xuyên suốt, nhất
quán trong xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể, một giọng điệu và sắc thái thống nhất.
Không phải nhà thơ nào cũng có được phong cách, nó chỉ có ở những tác giả tài năng, bản lĩnh. Có thể nói, trong tiến trình thơ dân tộc Tày hơn nửa thế kỷ có nhiều tác giả đã và đang tạo được những bản sắc riêng cho thơ ca của mình, cũng như ghi dấu ấn sâu đậm trong nền thơ các dân tộc thiểu số. Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu ba phong cách thơ Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn, thứ nhất vì đó là những tác giả đạt được thành tựu tiêu biểu, nổi trội; sức viết bền bỉ và những đổi mới không ngừng trên hành trình sáng tạo; thứ hai, bởi lẽ “các tác giả văn học lớn là những nhà tư tưởng, là người báo hiệu, mở đường cho một thời đại” [52, tr. 716], phong cách thơ của ba tác giả này có sự ảnh hưởng lớn đối với thế hệ sau. Tuy có những đặc điểm chung như thế nhưng khi nghiên cứu và tìm hiểu ba phong cách thơ Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn, chúng tôi không đặt ra tham vọng giải quyết tất cả những nét hay, những thành công trong sáng tác của họ mà chỉ là đặc trưng riêng của từng tác giả trong một nền thơ giàu có, bởi sự rập khuôn sẽ dẫn đến xòa nhòa mọi nét độc đáo làm nên gương mặt riêng từng tác giả.
4.1. Thơ Nông Quốc Chấn - sự kết hợp truyền thống và tinh thần thời đại
Núi Hoa (Phja Bjoóc) là một trong những biểu tượng đẹp, trở đi trở lại trong thơ Nông Quốc Chấn. Ông tự nhận mình là người Núi Hoa, từ những câu thơ của thời kỳ sáng tác đầu: Khi nghe gió thổi qua Phja Bjoóc/ Em biết mùa thu đã hết rồi (Khâu áo, 1948) đến những câu thơ khi tuổi đời đã ngoài “thất thập”: Anh nhuộm thuốc tiên hay tóc thật?/ Mà xem đầu tóc mãi không già!/ Xin thưa! Tóc thật, tôi người thật/ Có lẽ tôi mê cây núi Hoa (Đầu tóc, 2000). Chặng đường 60 năm sáng tác, Nông Quốc Chấn nhất quán một phong cách, đấy là thứ thơ ca phục vụ cuộc sống, cuộc chiến đấu của dân tộc mình, Tổ quốc mình. Tuy nhiên, những vần thơ trong sáng, gần gụi, giản dị neo lại lâu hơn những vần thơ kêu gọi, cổ vũ.
Là người dân tộc thiểu số đầu tiên “mang hơi thở núi rừng Việt Bắc vào thi ca”, Nông Quốc Chấn được xem là “cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các dân tộc thiểu số. Ông là người mở đường, người để lại dấu
ấn sâu đậm không thể quên, không chỉ với văn học các dân tộc thiểu số hiện đại nói riêng, mà có vị trí vững chắc trong tiến trình văn học cách mạng Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX” (Tô Hoài). Nông Quốc Chấn cũng là một trong số ít người dịch thơ văn từ tiếng Việt sang tiếng dân tộc (tác phẩm Mười điều kháng chiến - sách của Bác Hồ, in đá, 1947). Các tác phẩm của ông có thể kể đến: Việt Bắc tức slấc - Việt Bắc đánh giặc (trường ca tiếng Tày, in đá, 1948), Pây Bá Linh mà - Đi Berlin về (bút ký bằng thơ, in đá, 1951), Tiếng ca người Việt Bắc (1959), Tiếng lượn cần Việt Bắc (thơ tiếng Tày, 1960), Cần Phja Bjoóc (truyện thơ tiếng Tày, 1961), Đèo gió (1968), Dám kha Pác Bó - Bước chân Pác Bó (thơ tiếng Tày, 1971), Dòng thác (1977), Bài thơ Pác Bó (1982), Suối và biển (1984) và 3 tập tiểu luận - phê bình có giá trị cao.
Tham gia hoạt động cách mạng năm 17 tuổi và cũng thời gian đó, ông bắt đầu những sáng tác đầu tiên. Đến năm 1945, ông hoạt động trong Mặt trận Việt Minh và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Sự nghiệp văn chương của Nông Quốc Chấn gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng. Nhắc đến Nông Quốc Chấn, người đọc sẽ nhớ ngay đến hai bài thơ Bộ đội Ông Cụ và Dọn về làng (giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952). Thơ Nông Quốc Chấn đã đặt một dấu mốc lịch sử quan trọng, đưa thơ ca dân tộc Tày sang một giai đoạn mới, “bước vào quỹ đạo hiện đại của nền thơ Việt Nam”. Cuộc sống bề bộn, lớn lao và những tháng ngày chiến đấu gian khổ, hào hùng mà bình dị đã bồi đắp, nuôi dưỡng cho hồn thơ ông đậm chất núi rừng, niềm tự hào và thiết tha yêu cuộc sống. Nó giản dị, ấm áp, hồn nhiên như chính những câu chuyện của người Tày: Kỳ lưng cho nhau, nói chuyện thơ, trăng lên gọi hai người…
Trước 1945, Nông Quốc Chấn có một số bài thơ nói về tinh thần cách mạng, tình đồng chí (Mưa gió, Khóc đồng chí...) nhưng cách viết còn thiên về lối nói vụng về, đôi khi lại hoa mĩ, ước lệ. Thơ ông chỉ thực sự chuyển biến sau cách mạng tháng Tám với những tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng là Việt Bắc đánh giặc và Khâu áo (1948), Dọn về làng (1950)... Vẫn thể hiện một bút pháp dung dị, gắn bó mật thiết với mạch nguồn văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày, những bài phong slư trữ tình... nhưng thơ Nông Quốc Chấn giai đoạn này chứng tỏ một phong cách độc
đáo, có thể nói là vượt trội so với những nhà thơ dân tộc thiểu số cùng thời. Nguồn cảm hứng chính là cách mạng và cuộc đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là những người con Việt Bắc. Cũng như Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao), thơ Nông Quốc Chấn là thơ Việt Bắc [10, tr.6]. Nông Quốc Chấn đặc biệt yêu thích, am hiểu thành ngữ, tục ngữ, các làn điệu dân ca Tày và vận dụng sáng tạo trong sáng tác thơ ca của mình. Phong slư - một thể loại văn học được cho rằng đã ra đời cùng với chữ Nôm - Tày, thanh niên nam nữ Tày ngày trước thường sử dụng phong slư để trao gửi tình cảm với người mình thương nhớ. Phong slư phổ biến theo thể 7 chữ (khá gần với tứ tuyệt):
Cẳm nảy đôi rà cáp yến anh
Tỉnh nhìn tổng một dục cầm canh Bạn hợi cừn vằn mì tiểng tổng Cạ ngay hẩư sị đảy học hành. (Đêm nay đôi ta họp yến anh
Nghe thấy trống giục lúc sang canh Em hỡi đêm ngày nghe tiếng trống Hãy lượn ngay lên cùng học hành).
Thế hệ đầu tiên, những nhà thơ Tày hiện đại như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu... được nuôi dưỡng trong một cộng đồng mà từ lời ăn tiếng nói hàng ngày đã mang chất thơ, bởi vậy chịu những ảnh hưởng sâu sắc của lối nói dân gian. Trong thơ Nông Quốc Chấn ta thường bắt gặp cách “nói thơ” rất tự nhiên:
- Em xin hỏi mấy lời, anh hỡi Việt Bắc có mấy suối mấy đồi Bao nhiêu dòng nước chảy xuôi
Có bao tiếng hát của người khác nhau?
(Tiếng ca người Việt Bắc)
- Tôi biết buôn anh cũng có rừng Có nương màu mỡ, có đàn tơ rưng Có voi chở lúa đi ngang núi
Có những người con thật anh hùng.
(Việt Bắc - Tây Nguyên)
Gia đình Nông Quốc Chấn có truyền thống hiếu học, bố ông làm thầy tào, có sáng tác thơ bằng chữ Nôm Tày (truyện thơ Kể chuyện nghèo khổ). Nông Quốc Chấn kể về ảnh hưởng đó trong tiểu luận Đường ta đi: “Tập truyện thơ Kể chuyện nghèo khổ đã giúp tôi biết yêu thương người nghèo, căm thù kẻ bạc ác”. Ngoài ra, Nông Quốc Chấn còn vận dụng những truyền thuyết, tục ngữ, ca dao… của người Tày vào sáng tác của mình. Ngoài những thể phong slư, việc kế thừa truyền thống thơ ca dân gian Tày ở sáng tác của Nông Quốc Chấn còn thể hiện trong nội dung thơ. Người núi Hoa (Cần Phja Bjoóc) có nhiều tình tiết giống với truyện thơ Khảm hải (Vượt biển)... Tuy những bài thơ đầu tiên là thơ tình nhưng đặc điểm nổi bật nhất của thơ Nông Quốc Chấn là thứ thơ ra đời cùng cuộc kháng chiến, cùng những ngày gian khổ, do đó, cảm xúc hết sức chân thành kết hợp với bút pháp trữ tình khiến những tác phẩm của ông đến với đông đảo quần chúng nhân dân, được đồng bào miền núi yêu mến. Tuy cách viết không gọt giũa, chủ yếu là phương thức kể, xen lẫn bộc lộ thẳng, trực tiếp thái độ như: Hôm nay Cao Bắc Lạng cười vang/ Dọn lán, rời rừng, người xuống làng/ Người nói cỏ lay trong ruộng rậm/ Con cày mẹ phát ruộng ta quang nhưng vẫn thể hiện sự tinh tế trong ý thơ, cách lựa chọn hình ảnh. Đây cũng là giai đoạn ông viết những bài thơ hay nhất của đời mình.
Nông Quốc Chấn biết phát hiện những yếu tố mới lạ bằng một cái nhìn tinh tế mang vẻ hồn nhiên, khỏe khoắn, vui tươi của người miền núi, của dân tộc Tày quê ông. Dọn về làng nằm trong bài thơ dài được tác giả sáng tác bằng tiếng Tày Toỏn mà bản (Mùa xuân lại về) thể hiện rất rõ đặc trưng đó. Bằng việc tạo dựng hình ảnh xen giữa thời gian hiện tại và quá khứ, hướng cái nhìn đến tương lai, Nông Quốc Chấn bộc lộ niềm vui rất thực của những con người dân tộc ông khi được trở lại làng bản sống cuộc sống hòa bình:
Mặc gà gáy chó sủa không lo Ngày hai bữa, rau ta có muối
Ngày hai buổi, không tìm củ pẩu, củ nâu Có bắp xay độn gạo no lâu
Đường ngõ từ nay không cỏ rậm
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con Quả trên cành không lo tự chín tự rụng…
Nông Quốc Chấn dựa vào cách nói quen thuộc của người Tày, câu thơ: Trong vườn chuối hổ không dám đến đẻ con/ Quả trên cành không lo tự chín tự rụng, diễn tả theo cách nói slưa mà hất slằng (hổ về làm ổ) ám chỉ những nơi hoang vu và mác táng mà táng mừa (quả khắc đến khắc về) chỉ những vườn cây bỏ hoang. Lữ Huy Nguyên nhận xét “Từ những bài phong slư chỉ được biết đến ở một bản góc rừng quê hương anh, đến Dọn về làng được giải thưởng quốc tế, được thế giới ghi nhận là một thành công trong thơ anh, Nông Quốc Chấn đã có một bước tiến dài” [12, tr.24].
“Nội dung của thơ ca các dân tộc thiểu số đã cố gắng phản ánh hiện thực cuộc sống, và thực sự là tiếng nói tình cảm của những con người thời đại ngày nay” [12, tr.168]. Tuy hòa trong không khí ngợi ca cuộc kháng chiến, ngợi ca Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng Nông Quốc Chấn không rơi vào xu hướng ngợi ca một chiều. Ông khắc họa hình ảnh núi rừng Việt Bắc đẹp tươi: Ta men ngược sông Năng/ Thăm Hang Puông, hoa mỉm cười trên núi đá/ Thăm Bãi Soi, có người dọn người cày/ Thăm Đèo Đẳng, thác nước trôi cuồn cuộn (Thư gửi Ba Bể); Lô Giang tàu ngược tàu xuôi/ Bằng Giang soi bóng núi đồi cỏ hoa (Tiếng ca người Việt Bắc)... nhưng vẫn giữ cái nhìn khách quan, năm 1959, trong bài Việt Bắc - Tây Nguyên, Nông Quốc Chấn viết:
Quê tôi chưa phải chỗ thiên đường Còn áo vá vai, ăn bắp nương
Lối bước còn gai còn khúc khuỷu
Nhưng theo Đảng vạch sẽ quang đường.
Dần dần, chứng kiến những biến đổi lớn lao của bản làng và con người quê hương đã có những ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và tình cảm của ông. Trong bài thơ Nhớ, Nông Quốc Chấn khẳng định một quyết tâm, tin tưởng hết sức chân thành: Ai nhớ cứ nhớ/ Ai đi cứ đi/ Chiến trường súng nổ/ Hết giặc lại về. Trong cuộc chiến đấu ác liệt ấy, người thi sĩ vẫn không quên những giây phút thanh bình quý giá. GS. Vũ Khiêu đã từng nhận xét "Tâm hồn anh từ nhỏ được nuôi dưỡng bằng chất thơ của tình người, trong giọng hát lượn then, trong âm thanh đàn tính… thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như sườn núi. Nhưng đọc thơ anh, người ta dần nhận ra cái gì đáng yêu, từ tâm hồn anh có cái gì trong trắng như hoa ban, ngọt lành như suối mát”.