Trong thơ Nông Quốc Chấn, bà mẹ Việt Bắc, những cô công nhân, anh du kích được dành cho những tình cảm đặc biệt. Họ là đại diện tiêu biểu của những con người dân tộc Tày nói riêng, dân tộc thiểu số nói chung mang trong mình “tâm hồn thế hệ Hồ Chí Minh”, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc Việt Nam. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với những khắc họa đời thường:
Cụ Già chân đi đất
Mặc bộ quần áo Nùng. Tay cầm cái gậy mây rừng,
Miệng ngậm một điếu can không khói. Bộ râu dài vừa trắng vừa đen
Chân tay nhanh nhẹn như thanh niên…
Cái nhìn của một người dân tộc thiểu số, rất thật thà khi đoán “Nhất định đây là người Pỏ cốc” (người đứng đầu), Bác được tái hiện bằng những hành động cụ thể: Cụ già cười, vẫy chào người đứng đón; Người già đến, Cụ mời ngồi niềm nở/ Trẻ con lại, Cụ bế xoa đầu"; Khi ăn cơm chiều/ Bộ đội đếm: một, hai… ngồi trật tự/ Cụ đi từng bàn xem bát đũa/ Cho thổi còi rồi Cụ ăn sau. Cái cao cả mà giản dị của Người được bộc lộ qua lời dạy với bản: Muốn cách mệnh thành công mau/ Ta phải kết đoàn như bó đũa. So với những nhà thơ người Kinh viết về Bác như Tố Hữu, Minh Huệ, Chế Lan Viên, Bộ đội Cụ Hồ của Nông Quốc Chấn thể hiện một cách xuất sắc chân dung vị lãnh tụ vừa gần gũi, giản dị đời thường vừa có ý nghĩa giáo dục. Sau này, Nông Quốc Chấn lại diễn tả nỗi đau đớn mất mát khi Bác ra đi với giọng thơ da diết: Sáng mồng bốn/ Ôi, tin đau đớn!/ Từ thủ đô phát bản nhạc nghiêm trang/ Giọng nói ngậm ngùi báo quốc tang!/ Bác! Chúng con bồn chồn ngơ ngác/ Trái tim Người ngừng đập thật rồi ư?/ Không, không bao giờ! (Bác Hồ sống mãi với chúng con).
Khi cả nước dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Nông Quốc Chấn có sự thay đổi khá nhiều trong cách thể hiện, với một loạt những tác phẩm thành công như Người núi Hoa (1958), Tiếng ca người Việt Bắc (1959), Đèo gió (1968), Bước chân Pác Bó (1971) rồi đến Dòng thác (1977), Bài thơ Pác Bó (1982), Suối và biển (1984). Giai đoạn này thơ Nông Quốc Chấn có sự mở rộng đề
tài, thử sức nhiều trong bút pháp thể hiện và nổi lên những bài thực sự xuất sắc, có thể kể đến Chiến sĩ và diễn viên, Người Tân Trào, Nhuộm áo, Nhớ...
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 14
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 15
- Thơ Nông Quốc Chấn - Sự Kết Hợp Truyền Thống Và Tinh Thần Thời Đại
- Thơ Dương Thuấn - Khát Vọng Hướng Về Nguồn Cội
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 19
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 20
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Các dạng thức đầu tiên của thơ Tày là hát lượn, hát then, được tổ chức phổ biến theo nguyên tắc một khổ 4 câu mỗi câu có 5 chữ. Nông Quốc Chấn cũng có nhiều bài theo dạng thức này và tương đối thành công như: Nhớ, Tiếng nói, dấu chân anh, Tiếng đàn T’rưng, Người Tân Trào, Ba bố con họ Hoàng, Nhớ Thái Bình, Bài thơ Pác Bó…
Tôi định xin nghỉ phép Về thăm quê, thăm nhà
Nhưng nghe tin giặc Pháp Lại đánh miền Nam ta.
Nửa đêm tôi lại đi Tàu chở đầy đồng chí Đất nước lại lâm nguy
Đường hành quân không nghỉ.
(Người Tân Trào)
Nhà thơ Lò Ngân Sủn nhận xét nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh của nhà thơ Nông Quốc Chấn: “Nhà thơ - nhà lý luận phê bình - nhà quản lý Nông Quốc Chấn lớn lên, trưởng thành từ trong dòng thác lớn của cách mạng của kháng chiến; từ trong núi rừng Việt Bắc; từ cội nguồn văn hóa dân tộc Tày Bắc Kạn. Nhà thơ - nhà lý luận - nhà quản lý là ba phẩm chất lớn ở trong ông, do chính ông tạo nên trong suốt cuộc đời ông, và chính ba phẩm chất lớn đó đã hoà quyện, đúc kết nên con người ông, nên sự nghiệp của ông, trong đó phẩm chất chói sáng nhất, toả sáng nhất ở trong ông là thơ ca, bởi chính thơ ca ông đã làm cho ông trở nên bất tử” [37, tr.10]. Trong suốt hành trình kháng chiến và sáng tác, thơ Nông Quốc Chấn gắn bó cụ thể với đời sống đồng bào miền núi, đặc biệt là không lúc nào rời xa truyền thống, lối nói, cách nghĩ dân tộc mình. Thơ chống Mỹ với những tập Đèo gió, Dòng thác, tầm khái quát có phần cao hơn những bài thơ của thời kỳ chống Pháp. Ở đây, Nông Quốc Chấn cố gắng vươn lên một bút pháp hiện đại hơn:
Tiếng động ầm ầm rung gốc cây Trâu đực húc nhau? Hay hổ đẻ?
Vào xem mới biết máy đang cày…
(Qua đường Tuyên Quang)
Hình ảnh đất nước Việt Nam được so sánh: Ôi! Việt Nam!/ Như cây nghiến vươn lên trời cao ngất… Đến thời kỳ hòa bình, Suối và biển (1984) thể hiện sự trăn trở, tìm tòi, giàu xúc cảm hơn. Tuy nhiên có thể thấy, những bài thơ đặc sắc nhất của Nông Quốc Chấn chủ yếu tập trung ở giai đoạn còn chiến tranh. Sau này, từ tập Dòng thác, rồi đến Bài thơ Pác Bó, Suối và biển, thơ Nông Quốc Chấn mượt mà hơn trong vần điệu, cấu trúc hiện đại hơn nhưng cái nhìn bớt đi nhiều sự hồn nhiên và bộc trực, bởi thế kém hấp dẫn một phần.
Không chỉ là một nhà thơ - Nông Quốc Chấn còn là một nhà lý luận, ông từng nói: "Nếu muốn cho thơ của mình được chắp cánh bay cao, bay xa đến khắp các làng mạc, trong rừng, trên núi thì những người làm thơ của mỗi dân tộc trước hết dùng tiếng mẹ đẻ một cách tự hào, trân trọng và thông thạo. Người trong một dân tộc nào đó dù có giỏi tiếng phổ thông hoặc tiếng dân tộc khác bao nhiêu khi nghe hoặc đọc thơ bằng tiếng dân tộc mình, vẫn dễ cảm thông rung động hơn”. Tuy không phải thử nghiệm mới nào cũng đưa lại những thành công như mong muốn, nhưng thơ Nông Quốc Chấn giai đoạn sau này nhiều lúc thấy nhiều cố gắng đổi mới. Trong Dòng thác (1977), Bài thơ Pác Bó (1982), Suối và biển (1984), thành công hơn cả lại ở những bài thơ đề tài giản dị, gần gũi: Đàn ba dây, Vá áo, Rừng trúc...; những bài thơ đề cập đến những vấn đề mang tính chính luận, nêu quan điểm, tư tưởng thì đôi khi gượng ép, khiên cưỡng trong liên tưởng, tạo dựng hình ảnh. Lối so sánh, ví von đặc trưng của người miền núi vẫn được khai thác triệt để trong suốt chặng đường thơ Nông Quốc Chấn. Giai đoạn trước ông viết: Mặt trời như lửa bốc; Thấy vách nát, còn lỗ sáng như sao sa; Thời gian nhanh như nháy mắt; Chiến sĩ ta như thép như gang; Người đi như bướm tháng ba/ Xe đi như gà tìm thóc/ Nhà cao cao như núi dốc... rồi đến: Đời cháu như bụi luồng/ Rễ bám sâu xuống đất/ Chòm ta như cây rừng/ Bóng sum suê reo hát (Bài ca trồng luồng - 1966).
Ở giai đoạn sau này, cái độc đáo được thể hiện rõ hơn khi ông so sánh:
Chợ Bắc Hà
Nơi hò hẹn đôi ta
Nơi gặp gỡ sắc màu trời đất
Mận, đào, lê chín ngọt Như tình yêu con người.
(Chợ Bắc Hà, 1982)
Thơ Nông Quốc Chấn là minh chứng rõ nét cho phương châm sáng tác mà ông từng khẳng định: “Mỗi khi cầm bút, tôi phải nhớ lại xem mình đã dùng cách gì, hình ảnh gì, chữ gì, câu gì ở các bài trước, để tránh lặp lại. Càng ngày tôi càng nhận thấy không thể lặp lại những cái cũ, mà phải luôn luôn tìm cái mới” [12, tr.190-191]. Bài thơ Rừng trúc (trong tập Suối và biển) có tứ thơ hay, nói được vấn đề sâu sắc:
Ta đi dọc ngang rừng trúc Nghe tiếng sáo điệu dân ca Trong sáng tâm hồn dân tộc Lòng nhân ái A di đà
Gió mưa qua nhiều thế kỷ Rêu lên xám trên mái chùa Mà niềm tin thành chân lý Đất này Độc lập, Tự do
Trúc già măng non lại mọc Mây bay đến mây bay đi
Núi vững trường thành Tổ quốc Đời đời hỉ xả từ bi.
Năm 2000, Nông Quốc Chấn được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Tuyển tập Nông Quốc Chấn, Tiếng ca người Việt Bắc, Đèo gió, Suối và biển. Từ những bài thơ đầu tiên cho đến những bài thơ cuối cùng, một chặng đường sáng tác 60 năm, ông viết chủ yếu về đề tài cách mạng. Khi viết về quê hương mình, dân tộc mình, ông vẫn luôn ý thức sâu sắc về mối quan hệ giữa bản sắc riêng, phong cách riêng trong ngôn ngữ, vần điệu của dân tộc mình với Tổ quốc Việt Nam trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa và trong toàn thế giới, Nông Quốc Chấn khẳng định: “Thơ của tôi, thơ của bạn trước sau vẫn là tiếng nói, tâm hồn của dân tộc mình. Dù có nói tới muôn nghìn việc mới, dù có tiếp thụ thêm bao nhiêu
hình thức mới, dù có được bổ sung thêm bao nhiêu cây bút mới, thì tiếng nói và tâm hồn thơ của mỗi dân tộc vẫn cứ cần được giữ lấy chất trong sáng, chân thật của dân tộc mình” [12, tr.183].
4.2. Thơ Y Phương – giàu chất trí tuệ
Tập thơ đầu tiên - Tiếng hát tháng Giêng (1986) gồm 31 bài, (Giải A Hội Nhà văn Việt Nam 1987) là một sự “trình làng” ấn tượng sau Giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội 1984 với 2 bài Tên làng, Phòng tuyến Khau Liêu. Y Phương bắt đầu sự nghiệp với những bài thơ đánh giặc dung dị, và nhanh chóng nổi tiếng. Thơ ông ngày càng sung sức, bút pháp điêu luyện, thể hiện sự nhanh nhạy, bắt kịp với những đổi thay của cuộc sống người miền núi do có sự gắn bó sâu nặng với quê hương, dân tộc.
Ba mảng đề tài chính được nhà thơ dụng công khai thác là sự tin yêu, tự hào về con người, quê hương, đất nước; nỗi lòng, ý chí của người lính chiến đấu xa quê hương và một tình yêu bền bỉ, thiết tha. Bằng cách viết linh hoạt, sắc sảo, hình ảnh của người mẹ, người con, người yêu mang đậm bản sắc vùng cao hiện lên đầy xúc cảm, ấn tượng; qua đó ông cũng đặt ra nhiều vấn đề lớn và thể hiện sự hiểu sâu về cuộc đời, ý thức rõ về trách nhiệm của thế hệ mình với đất nước. Vẫn tiếp nối mạch cảm xúc của tập thơ đầu tay nhưng những khám phá và soi chiếu dường như sâu sắc hơn, âm thầm và bền bỉ, Lời chúc ra mắt bạn đọc năm 1991 (được giải A Hội đồng Văn học miền núi 1992) thể hiện một tình cảm khác lạ của Y Phương. Ở chặng mới này, Y Phương thể hiện một bản lĩnh sáng tạo mạnh mẽ, tính dân tộc kết hợp với tính hiện đại rất rõ qua những bài: Đi tìm, Da thịt em, Mùa hoa, Chén nước…
Người đọc sẽ dễ nhận ra một điểm rằng, thơ Y Phương nhiều nỗi buồn, buồn khi ngẫm ngợi và hát những khúc ca về cuộc sống, buồn khi “gảy khúc đàn trời” (chữ dùng của Tạ Duy Anh). Đàn then ra mắt năm 1996, chủ yếu hướng cái nhìn vào cuộc sống miền núi đương đại với đầy đủ, phong phú những xúc cảm, tâm trạng. Hệt như cây đàn then cấu tạo đơn giản nhưng sức biểu cảm lại vô cùng phong phú, thơ Y Phương vẫn là hình ảnh cuộc sống gia đình, tình cảm vợ chồng, con cái, tình yêu đôi lứa… được khắc họa giản dị, nhẹ nhàng nhưng thể hiện rõ một tấm lòng thiết tha hướng về nguồn cội. Đi nhiều, ngẫm ngợi và trải nghiệm, ông nhận
thức sâu hơn những giá trị trong cuộc sống và rồi bắt đầu làm một cuộc hành trình “tôi đi tìm tôi”, vẽ lại chân dung tự hoạ của mình, của dân tộc mình, ở đó có hạnh phúc, gai góc, khó nhọc nhưng hơn hết là ở đó có tình yêu thương. Chín tháng (Giải nhì của Bộ Quốc phòng năm 1994 - 1999, Giải nhì Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam) là một khúc ca với đầy ắp các sự kiện, tâm trạng, có những câu thơ viết rất tài hoa, hay đến ngỡ ngàng. Ông nói về chiến tranh nhưng không gợi ra sự dữ dội mà hướng người đọc về cái khát khao “chiến trường cần tiếng cười” và chủ yếu dành tôn vinh người mẹ chiến sĩ, âm thầm, bền bỉ, cao cả: Mẹ rồi như trăng sao/ Êm êm đi vào miền đời người/ Bình dị…
Năm 2001, ông về Hà Nội. Lấy mốc 2001 làm sự phân chia hai giai đoạn sáng tác của Y Phương, ta sẽ thấy sự thay đổi khá rõ rệt trong cảm hứng. Ban đầu là thơ, trường ca, rồi đến tản văn. Y Phương viết nhiều đề tài, nhưng thành công nhất là đề tài chiến tranh - số phận con người - số phận dân tộc. Cũng trong đề tài ấy ông gói gọn được cả tình quê hương, tình yêu lứa đôi và tình cảm gia đình một cách sâu sắc nhất. Từ Tiếng hát tháng giêng (1987) đến Thất tàng lồm - Ngược gió (thơ song ngữ Tày - Việt, 2006), trường ca Đò trăng (2009) đều nhất quán điều ấy. Tiếng hát tháng giêng được nhận xét là hứa hẹn một tài năng thơ của người dân tộc thiểu số. Đến hai tản văn gần đây nhất là Tháng giêng tháng giêng một vòng dao quắm (2009) và Kungfu người Co Xàu (2010) dành được không ít lời khen ngợi và lần đầu tiên thể loại tản văn được tặng thưởng của Hội Nhà văn (giải thưởng năm 2010 cho Tháng giêng tháng giêng một vòng dao quắm). Theo nhà văn Tuy Hòa, đây không chỉ là niềm vui cho nhà thơ Y Phương mà còn là niềm vui của giới cầm bút, vì lần đầu tiên giá trị của thể loại tản văn được công nhận ở góc độ nghề nghiệp.
Cho đến nay, Y Phương đã có hơn 35 năm sáng tác. Con đường nghệ thuật ấy gắn với nhiều sự kiện và biến cố quan trọng cũng như những thành tựu của văn học dân tộc. Quê hương trong đau thương và quê hương trong yên bình, con đường trong chiến đấu hy sinh và con người trong xây dựng cuộc đời mới, ông đều khắc họa với những nét mộc mạc, giản dị, thông minh, giàu suy tưởng. Đồng thời với quá trình tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” nhất là tâm hồn những con người miền núi, những vần thơ của Y Phương là những khúc ca nói lên
ước muốn, khát vọng của mình về cuộc sống, về tương lai dân tộc. Từ miền quê của mình, từ truyền thống văn hóa của dân tộc mình, ông đã nhìn xa hơn tới những miền quê khác. Tìm hiểu thơ ông, tìm hiểu những đóng góp, những thành tựu đáng ghi nhận của thơ ông phải nhìn vào rất nhiều yếu tố. Chỉ xét riêng về sự kế thừa và phát huy truyền thống, sự đổi mới để mở đường cho thế hệ sau, những tác phẩm của Y Phương đã có rất nhiều ý nghĩa thiết thực. Một yêu cầu được đặt ra là, “đứng trước một tác phẩm hay, phải luôn luôn có ý thức đặt vấn đề nó đã kế thừa và bảo vệ những tinh hoa và loại bỏ những cặn bã trong di sản dân tộc như thế nào; đồng thời đã có những đóng góp phát triển ra sao cho những tinh hoa đó” [52, tr.689].
Trong thơ Y Phương, những mảng đề tài cũ vẫn xuất hiện nhưng bằng một cách viết khá hiện đại và đậm chất miền núi, ở đó có sự từng trải trong cuộc sống, có những cách diễn tả hồn nhiên mà sâu lắng; cách quan sát, bộc lộ cảm xúc cho thấy một lối tư duy hiện đại, vừa chan hòa vừa chế ngự, điều khiển được tự nhiên xung quanh của ông. Ông hát về miền quê Cao Bằng gạo trắng nước trong của mình bằng những vần thơ thật khỏe khoắn: Đất nước/ Chưa một ngày yên nghỉ/ Ngủ cũng đi/ Và ăn cũng đi/ Biển réo đằng kia/ Còn trời/ Còn đau khổ/ Đất nước dài mắt người thiếu phụ… Rồi hình ảnh quê hương trong thanh bình. Đó là con sông Bằng Giang nước xanh biêng biếc, với những ngọn núi cao sừng sững, với những vui buồn của con người vùng cao từ mảnh đất quê hương ấy: Bao nhiêu trời ghé xuống/ Bao nhiêu rừng lội qua/ Bao nhiêu đá chắt ra/ Mới biếc xanh Bằng Giang… Những hình ảnh đó không chỉ là những địa danh mà mang ý nghĩa của cội nguồn nuôi dưỡng, một chiều sâu nhân bản. Y Phương hát về quê hương, hát về hạnh phúc và cả những xót xa: Mỗi khi hát đầm đìa nước mắt/ Thương cho dân tộc mình lao đao bốn mặt...
Hình ảnh người phụ nữ luôn ở vị trí trung tâm trong thế giới thơ của Y Phương nhưng được mở rộng, phong phú với nhiều hình ảnh, cảm xúc vừa cụ thể vừa khái quát, vừa hiện thực vừa nhiều suy tưởng. Cao hơn hết là người mẹ - hình ảnh đầu tiên và cái lẽ cuối cùng của mọi điều cao cả trên thế giới, là điểm tựa, là nơi nương náu, tìm về, là nơi con người hiện hữu thiện tính của mình. Y Phương bộc lộ tình yêu thương, kính trọng vô bờ bến: Mẹ/ Người bạn đầu tiên của tôi/ Kho báu
đầu tiên của tôi… Đó là những bà mẹ đậm chất vùng cao trong từng hành động, suy nghĩ: - Mẹ chẳng đi đến đâu/ Chẳng được học hành gì/ Không biết những bà mẹ khác/ Có yêu con như mẹ không/ Có thương người như mẹ không/ Có thèm cháu như mẹ không…Hay hơn cả, xúc động hơn cả là hình ảnh người mẹ với những vất vả, lo toan, những khổ đau không tả xiết: Vừa đi vừa ôm ngực/ Toàn thân cúi gập/ Như con sâu đo/ Mẹ mùi măng chua/ Tám mươi tuổi/ Mẹ không dám ốm một ngày/ Không dám mỏi một giờ... Nhà thơ Đỗ Trung Lai cho rằng: “Mẹ mùi măng chua” là câu thơ hay phát khóc về mẹ của Y Phương. Ông còn có những vần thơ rất xúc động dành viết cho con. Đứa con là nơi gửi gắm những yêu thương, những suy tư về hạnh phúc, về cuộc sống, cao hơn là về quê hương, dân tộc: - Con là sợi dây hạnh phúc/ Mảnh hơn sợi tóc/ Buộc cuộc đời cha vào với mẹ… và tấm lòng yêu thương, thiết tha mong mỏi khi bộc bạch những trải nghiệm gan ruột của mình với đứa con:
Xa đo nỗi buồn Cao nuôi chí lớn
Dẫu có làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá (đừng chê đá gập ghềnh)
Sống trong thung (không chê thung nghèo đói) Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không kêu cực nhọc Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.
Người phụ nữ trong thơ Y Phương mang những nét đẹp quen thuộc, là những gì gần gụi nhất, cơn mưa rào, ngọn lửa, gà gáy, quả ớt, cơm trong nồi… nhưng ý nghĩa mà nhà thơ muốn nhấn mạnh lại là: Có em về/ Anh mất dần thói xấu/ Biết ăn năn trước lúc bình minh… Trong những bài Phố xưa, Lá vàng bay lại bay, Ngọn đèn đường mùa đông, Nón mùa thu, Người dưng… Y Phương thể hiện sự tinh tế trong nhịp điệu, ngôn ngữ gợi hình rất đậm: Hiu hiu gió rồi/ Tôi lại nhớ một người/ Ngày ấy/ Tóc đuôi sam/ Vắt dài/ Trời ngát xanh/ Rừng ngát thơm/ Con đường bỗng dưng