1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong những năm qua, thế giới chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng khoa học công nghệ với xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức. Để bảo đảm sự phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã và đang không ngừng đổi mới giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho tương lai.
Từ xu thế chung của thế giới, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đất nước, những hạn chế, bất cập của Chương trình giáo dục hiện hành - không còn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình phát triển và hội nhập, Việt Nam đã và đang thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà theo tinh thần Nghị quyết 29 (NQ/TW). Theo đó, thực hiện đổi mới giáo dục từ mục tiêu tiếp cận nội dung, sang tiếp cận năng lực, xây dựng chương trình, sách giáo khoa (SGK) mới, đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học. Để chuẩn bị tốt cho thực hiện chương trình phổ thông mới, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ban hành công văn 4612/BGDĐT - GDTrH (03/10/2017) hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh (HS) từ năm học 2017 - 2018. Công văn nêu rõ: “Căn cứ chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, lựa chọn các chủ đề, rà soát nội dung các bài học trong SGK hiện hành tương ứng với chủ đề đó để sắp xếp lại thành một số bài học tích hợp của từng môn học hoặc liên môn; từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục cho từng môn học, hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường”. Như vậy, việc xây dựng và tổ chức dạy học chủ đề theo hướng tinh giản, tránh trùng lặp kiến thức, tạo sự logic, hợp lí trong điều kiện thực tế nhà trường, phù hợp với đối tượng HS, từ đó phát triển năng lực, phẩm chất cho HS là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với giáo viên (GV) hiện nay, đây là một xu hướng đổi mới nội dung dạy học đã và đang được sự chỉ đạo, khuyến khích của các cơ quan quản lí giáo dục. Tuy nhiên, hiện nay, việc thiết kế chủ đề còn mang tính tự phát và thiếu cơ sở lí luận.
1.2. Trong hệ thống giáo dục của nước ta, các trường THPT chuyên và trường THPT có hệ chuyên là môi trường giáo dục bên cạnh việc thực hiện đầy đủ, toàn diện các yêu cầu giáo dục phổ thông theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng thời còn thực hiện nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đó là hình mẫu của các trường trung học phổ thông về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo và tổ chức các hoạt động giáo dục.
Để đào tạo nhân tài, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển đất nước, yêu cầu đặt ra đối với các trường chuyên là cần cải cách thể chế đào tạo theo hướng kết hợp học tập với suy nghĩ sáng tạo; học gắn liền với thực hành; giáo dục, đào
Có thể bạn quan tâm!
- Thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội - 1
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Thiết Kế Và Tổ Chức Dạy Học Theo Chủ Đề Trong Môn Lịch Sử Ở Trường Phổ Thông
- Nghiên Cứu Của Các Tác Giả Trong Nước
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Tổ Chức Dạy Học Chủ Đề Cho Học Sinh Chuyên Sử Ở Các Trường Thpt
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
2
tạo theo đặc điểm của học sinh thay vì đào tạo theo một khuôn mẫu nhất định, theo một chương trình chung mang tính phổ thông. Việc đổi mới thiết kế nội dung dạy học thành các chủ đề, vừa đảm bảo tính cơ bản, tính hệ thống vừa đảm bảo tính khái quát, nâng cao; đồng thời vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới, hướng đến hình thành và phát triển các phẩm chất (Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm), năng lực chung (tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo) và năng lực đặc thù của bộ môn Lịch sử (tìm hiểu lịch sử; nhận thức và tư duy lịch sử; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học) là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với đội ngũ GV dạy chuyên.
1.3. Thành phố Hà Nội – thủ đô của cả nước, sau khi mở rộng địa giới hành chính đã có số lượng trường THPT nói chung; trường chuyên và trường THPT có hệ chuyên đông nhất cả nước; trong đó có 5 trường THPT có lớp chuyên Sử (4 trường thuộc sự quản lí trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, 1 trường trực thuộc Đại học Quốc gia) với số lượng học sinh đông nhất. Là một trong những cái nôi đào tạo nhân tài cho đất nước, Hà Nội cần tiếp tục phát huy lợi thế và nâng cao hơn nữa vai trò của mình trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, cung cấp nguồn lao động chất lượng cao, đáp ứng công cuộc xây dựng, phát triển, hội nhập của thủ đô và đất nước. Trong đó, bộ môn Lịch sử nói chung và chuyên Sử nói riêng cần phát huy thế mạnh, khơi dậy niềm tự hào về lịch sử dân tộc, về thủ đô văn hiến, anh hùng, nâng cao phẩm chất, năng lực của HS nói chung và HS chuyên Sử nói riêng. Để thực hiện được nhiệm vụ, sứ mệnh nói trên, đội ngũ giáo viên Lịch sử của Hà Nội nói chung, Giáo viên chuyên Sử nói riêng cần tích cực, đi đầu trong công cuộc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học; sáng tạo, chủ động trong việc thiết kế nội dung, linh hoạt vận dụng các hình thức, phương pháp dạy học nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu đổi mới giáo dục từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực.
1.4. Là một giáo viên dạy chuyên, từ thực tiễn quá trình dạy học và yêu cầu đổi mới giáo dục Lịch sử, bản thân tôi nhận thức được sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; tích cực đổi mới, sáng tạo, linh hoạt trong việc thiết kế nội dung và các phương pháp dạy học lịch sử, phục vụ cho chương trình hiện hành, đồng thời tạo nền tảng tốt để thực hiện chương trình môn Lịch sử mới 2018. Trong đó, việc thiết kế nội dung học tập cho HS chuyên, đồng thời lựa chọn các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học phát huy được năng khiếu, hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất người học là cơ hội để tôi được nghiên cứu sâu hơn về chuyên môn, tiếp cận các quan điểm, lí luận dạy học hiện đại, vận dụng hiệu quả các phương pháp dạy học, phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy của bản thân, đồng thời đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền giáo dục nước nhà nói chung và giáo dục thủ đô nói riêng.
3
Dạy học theo chủ đề là một trong những xu thế của đổi mới giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực học sinh hiện nay. Theo đó, nội dung kiến thức được thiết kế thành chủ đề, có kết cấu chặc chẽ, lôgic, hệ thống, thể hiện được tính liên tục, tính kế thừa và phát triển. Việc học tập lịch sử theo chủ đề cũng đòi hỏi người học phải tự giác, tự lực, chủ động hơn. Từ quá trình học tập đó mà phát triển được tư duy và hình thành các năng lực cốt yếu cho người học. Đặc biệt, những học sinh được học tập trong môi trường chuyên, có năng khiếu đối với bộ môn Lịch sử, thì việc được tìm hiểu các chủ đề lịch sử có tính hệ thống, sâu sắc và khái quát có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực và bản lĩnh cá nhân.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn nói trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề : “Thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội ” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn được góp phần vào quá trình đổi mới nội dung và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử nói chung và dạy học chủ đề cho học sinh chuyên Sử nói riêng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ lịch sử cho học sinh các lớp chuyên Sử ở trường THPT.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Về lí luận dạy học bộ môn: Tìm hiểu về lí luận dạy học theo chủ đề; đề xuất cách thức thiết kế chủ đề lịch sử và đề xuất các hình thức, biện pháp tổ chức dạy học chủ đề cho HS chuyên Sử ở trường THPT.
Về thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000 theo Chương trình hiện hành. Tuy nhiên, ở một số nội dung chủ đề có sự liên hệ, vận dụng đến hiện nay.
Về nội dung kiến thức: Vận dụng kiến thức ở phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến nay. Trong đó, có sự vận dụng, kết nối ở cả Chương trình phổ thông hiện hành (Chương trình nâng cao) và Chương trình phổ thông 2018.
Về địa bàn: Tiến hành khảo sát, điều tra thực tiễn việc dạy và học lịch sử theo chủ đề của giáo viên dạy chuyên Sử và học sinh chuyên Sử tại các trường THPT có hệ chuyên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thực nghiệm sư phạm (TNSP) từng phần và toàn phần qua một số chủ đề ở các lớp chuyên Sử. Địa bàn thực nghiệm (TN) là các trường THPT có hệ chuyên, trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, gồm: THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam; THPT chuyên Nguyễn Huệ; THPT Chu Văn An; THPT Sơn Tây.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay có thể sử dụng trong dạy học lịch sử cho học sinh chuyên Sử ở trường THPT; đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học theo chủ đề trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam nói trên, góp phần đổi mới việc thiết kế nội dung và vận dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của đề tài là:
- Nghiên cứu tổng quan những công trình của các học giả nước ngoài và trong nước có liên quan đến đề tài luận án; làm rõ kết quả nghiên cứu, sự kế thừa và những vấn đề luận án đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
- Nghiên cứu Lịch sử Việt Nam phần từ năm 1919 đến nay trong Chương trình hiện hành và Chương trình 2018, thiết kế nội dung các chủ đề lịch sử và những vấn đề lí luận về tổ chức và dạy học lịch sử theo chủ đề theo hướng phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học lịch sử để làm rõ cơ sở lí luận của đề tài.
- Điều tra, khảo sát làm rõ thực trạng dạy học lịch sử theo chủ đề ở các lớp chuyên Sử ở 04 trường THPT thành phố Hà Nội, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại.
- Xác định cơ sở thiết kế, quy trình thiết kế và thiết kế các chủ đề Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến nay, phục vụ công tác dạy và học cho đối tượng HS chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay ở trường THPT theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Thiết kế giáo án dạy học theo chủ đề và tiến hành TNSP để khẳng định tính khả thi của những biện pháp đã đề xuất trong đề tài luận án.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Luận án nghiên cứu trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhận thức; tư tưởng, quan điểm của Đảng, Nhà nước và chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và giáo dục lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp những tài liệu Tâm lí học, Giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử; nghiên cứu, phân tích chương trình và SGK Lịch sử, những tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài để hệ thống hóa những khái
5
niệm công cụ. Tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay để đánh giá những giá trị về mặt tư liệu, giá trị giáo dục lịch sử và tư tưởng, trên cơ sở đó thiết kế các chủ đề lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra, khảo sát thực trạng: thông qua quan sát, dự giờ, trao đổi, phỏng vấn, phát phiếu điều tra GV và HS nhằm tìm hiểu thực trạng dạy học theo chủ đề nói chung, và dạy học chủ đề cho học sinh chuyên Sử nói riêng trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Tham khảo, tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học, thảo luận trong Bộ môn tại cơ sở đào tạo, tổng kết kinh nghiệm của các GV dạy chuyên về dạy học chủ đề.
Phương pháp thực nghiệm (TN) sư phạm: thiết kế giáo án theo chủ đề và tiến hành TNSP từng phần, TN toàn phần để khẳng định tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất trong luận án.
Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý các số liệu thu được trong điều tra thực trạng và TNSP nhằm rút ra những kết luận khoa học.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được nội dung các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay trong dạy học cho học sinh chuyên Sử và đề xuất được các biện pháp tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử ở trường THPT theo hướng phát triển năng lực HS sẽ góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng, góp phần hoàn thành mục tiêu dạy học bộ môn ở trường THPT nói chung và cho học sinh chuyên Sử nói riêng.
6. Đóng góp của luận án
- Tiếp tục củng cố những cơ sở lí luận của việc thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực cho đối tượng HS chuyên Sử ở trường phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, qua đó làm giàu thêm lí luận dạy học bộ môn.
- Cung cấp được bức tranh thực trạng về việc thiết kế, tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử cho đối tượng HS chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội, với những đặc trưng nổi bật của môi trường giáo dục học sinh năng khiếu thủ đô.
- Đưa ra được những cơ sở của việc thiết kế các chủ đề lịch sử; quy trình thiết kế chủ đề lịch sử phù hợp với đối tượng HS chuyên và thực hiện thiết kế các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực.
- Đề xuất được các biện pháp tổ chức dạy học chủ đề cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực, hướng vào hình thành và phát triển ba thành phần năng lực, gồm: Tìm hiểu lịch sử; Nhận thức, tư duy lịch sử; Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.
7. Ý nghĩa của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần củng cố và làm phong phú thêm lí luận dạy học lịch sử theo
6
chủ đề nói chung và việc thiết kế nội dung và tổ chức dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử nói riêng trong dạy học lịch sử ở trường THPT theo hướng phát triển năng lực HS.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ nâng cao nhận thức của GV và HS PT về việc dạy và học lịch sử theo chủ đề. Giúp GV và HS biết vận dụng các biện pháp đề thiết kế các chủ đề lịch sử như nguồn tài liệu giảng dạy và học tập cho mình. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho giảng viên, sinh viên ngành Sư phạm Lịch sử các trường đại học và cao đẳng, GV và HS ở trường THPT.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận án được cấu tạo thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2. Thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT – Lí luận và thực tiễn
Chương 3: Cách thiết kế các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội.
Chương 4: Các biện pháp tổ chức dạy học chủ đề Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội. Thực nghiệm sư phạm.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Dạy học theo chủ đề là một trong những định hướng đổi mới trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông hiện nay. Trong Chương 1, trên cơ sở nghiên cứu tổng quan các công trình nước ngoài và trong nước liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi rút ra đánh giá chung và chỉ ra kết quả mà các nhà nghiên cứu đã đạt được, đồng thời định hướng những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
1.1. Các công trình nghiên cứu về thiết kế và dạy học theo chủ đề ở trường phổ thông
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài.
Các tác giả M.Alêcxêep – V.Onhisuc – M.Crugliăc – V.Zabôtin – X.Vecxcle (1976), trong cuốn Phát triển tư duy học sinh, đã tập trung phân tích lôgic học trong công tác của giáo viên; việc lĩnh hội tri thức dưới ánh sáng của tâm lí học và lôgic học, mối quan hệ giữa tri thức và tư duy, phát triển tư duy lôgic và tư duy biện chứng. Ở phần lĩnh hội tri thức và tư duy, để học sinh có thể lĩnh hội được vô vàn những sự kiện và khái niệm thì cần phải phân loại chúng, đồng thời thiết lập mối liên hệ, sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự kiện hiện tượng. Các tác giả cũng cho rằng “những cái nằm trong một hệ thống sẽ được ghi nhớ chắc chắn và bền lâu” [01; 25]. Ở phần tri thức và tư duy, các dẫn chứng được tác giả phân tích đều được sử dụng dưới dạng chủ đề; đồng thời, học sinh có thể tiếp thu thông tin mới qua lời kể của giáo viên, qua nghiên cứu tài liệu và đồ dùng trực quan; khi phân tích thông tin giáo viên có thể tiến hành đàm thoại, gợi mở và cho học sinh độc lập làm việc với sách giáo khoa. Tùy thuộc vào độ khó của chủ đề mà lựa chọn biện pháp cho hiệu quả. Trong quá trình phân tích các biện pháp để phát triển tư duy cho học sinh, tác giả đã nghiên cứu sâu nhất về dạy học nêu vấn đề. Các tác giả đã cho rằng, trong giờ học cần phải tạo ra những tình huống có vấn đề để kích thích hoạt động trí tuệ của học sinh. Các em phải phân tích, đối chiếu, so sánh, chứng minh, nêu giả thiết và rút ra kết luận. Từ quan điểm của tác giả soi chiếu vào đề tài nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, việc dạy học lịch sử theo chủ đề có thể đảm bảo được tính hệ thống và có ưu thế trong việc phát triển tư duy bởi sự sắp xếp hệ thống kiến thức trong chủ đề, đồng thời những gợi ý về mặt phương pháp được tác giả phân tích cũng là những cơ sở giúp chúng tôi đề xuất biện pháp dạy học theo chủ đề trong môn lịch sử.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào” (1978), tác giả I.F.Kharlamốp đã cho rằng học sinh chỉ “thực sự nắm vững cái mà chính bản thân giành được bằng lao động của chính mình” [63, 17]. Tri thức chỉ thực sự trở thành kiến thức khi nào nó là thành quả của những cố gắng của tư duy chứ không phải của trí nhớ. Yếu tố thúc đẩy tư duy chính là những ,nhiệm vụ nhận thức được nảy sinh trong quá
8
trình học tập. Những câu hỏi đặt ra sẽ góp phần kích thích óc tìm tòi, kích thích sự phân tích, so sánh, khái quát hóa. Nhưng đối với quá trình nhận thức – tư duy, bên cạnh câu hỏi, cần có tài liệu dùng để phân tích, đối chiếu, nghĩa là có tài liệu cho tư duy. Để phát huy tính tích cực hoạt động tư duy của học sinh, tác giả đã nhấn mạnh: “chúng ta không nên quên rằng tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích, động viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của học sinh. Đó là tính chất mới lạ của tri thức khoa học, tính sáng tỏ của các sự kiện, tính độc đáo của các kết luận, phương pháp đặc sắc để phát hiện ra các khái niệm đã được hình thành, sự thâm nhập sâu xa vào bản chất của hiện tượng” [63; 88]. Vì vậy, giáo viên phải thường xuyên chăm lo sao cho bài giảng của mình không đơn thuần thuật lại sách giáo khoa mà cần “có nội dung sinh động, hấp dẫn sâu sắc, làm phong phú và mở rộng thêm những kiến thức vốn có của học sinh” [63; 89]. Việc bổ sung kiến thức và cụ thể hóa những luận điểm chung trong nội dung của sách giáo khoa không những làm cho bài giảng được dễ hiểu hơn mà còn tạo cho nó tính hấp dẫn, cảm xúc và động viên được tính tích cực tư duy của học sinh. Những quan điểm nêu trên của tác giả có ý nghĩa định hướng và mách bảo chúng tôi trong việc chuẩn bị tốt nội dung học tập cho học sinh, trong đó việc sắp xếp kiến thức theo chủ đề nhằm làm phong phú, mở rộng, sáng tỏ sự kiện, làm chất liệu, kích thích hoạt động tư duy cho học sinh là việc làm cần thiết.
David A. Jacobsen, Paul Eggen, Donal Kauchak trong cuốn Methods for Teaching - Phương pháp dạy học (Prentice Half-Gale 2002) đã cho rằng để thúc đẩy hoạt động học tập phù hợp với các đối tượng HS, GV cần làm tốt các công tác chuẩn bị như: lập kế hoạch (Planing); tổ chức thực hiện (Implementing) và đánh giá (Assessing); đồng thời vận dụng những phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp với từng phong cách học khác nhau của HS nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của các em. Theo các tác giả, nếu GV biết đa dạng hóa cách dạy sẽ đạt hiệu quả hơn những người luôn chỉ làm theo một cách nhất định. HS có những phong cách học khác nhau nên GV cần hướng dẫn để các em biết được nên học như thế nào là tốt nhất, phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu của bản thân. Những quan điểm và gợi ý của các tác giả là một trong những tham khảo cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu, thiết kế nội dung và lựa chọn các phương pháp sao cho phù hợp với đối tượng HS có năng khiếu nhất định với môn học.
Qua nghiên cứu về cải cách giáo dục ở Anh, các tác giả Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (chủ biên), Lưu Lập Đức, Chu Hải Yến (Phó chủ biên) (2010), trong cuốn Cải cách Giáo dục ở các nước phát triển – Cải cách giáo dục ở Anh, đã chỉ ra rằng việc thiết kế nội dung chương trình học tập cho học sinh từ trường bình thường đến trường đặc biệt đều phải có yếu tố như: tính đa phương diện – nội dung thiết kế phải giúp học sinh có được tri thức, khả năng lí giải và kĩ năng trên diện rộng; đồng thời nội dung giảng dạy phải sát với