Nâng Cao Năng Lực Hoạt Động Của Các Chủ Thể Kinh Doanh Trên Thị Trường Du Lịch Thành Phố Đà Nẵng Trong Hội Nhập Quốc Tế


chương trình nghệ thuật trên tàu. Tăng cường thêm ánh sáng hai bên dòng kênh, tạo không gian hấp dẫn cho khách tham quan du thuyền ban đêm.

Chú trọng đa dạng các dịch vụ trên thuyền như ăn uống, bar- café nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, xây dựng bản thuyết minh du lịch đường sông, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho các lái tàu, nhân viên phục vụ… cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá về du lịch đường sông đến với người dân và du khách mạnh mẽ hơn.

Mặt khác, cần phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát vấn đề xả rác của người dân, du khách trên sông và hai bên bờ sông, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể của các tàu thuyền tham gia hoạt động trên sông, đặc biệt kiểm tra chặt chẽ kỹ thuật tàu thuyền, áo phao cho du khách, số lượng người trên những chuyến tàu du lịch nhằm tăng cường an toàn cho du khách và nâng cao chất lượng điểm đến của du lịch đường sông.

Du lịch sinh thái. Cần đẩy mạnh khai thác sản phẩm du lịch sinh thái theo hướng giáo dục môi trường, có thể phát triển ở những khu vực có hệ sinh thái đa dạng như Bà Nà-Suối Mơ, núi Sơn Trà, Suối Lương, Suối Hoa, Ngầm Đôi. Đây là loại hình thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho TP. Tuy nhiên, để phát triển loại hình du lịch này đòi hỏi chính quyền TP phải đầu tư về cơ sở hạ tầng du lịch, nghiên cứu, quy hoạch thích hợp đảm bảo sự đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, phải kiểm soát chặt chẽ để tránh phá hủy môi trường hiện có. Mặt khác, du lịch sinh thái phải tạo ra thu nhập nhằm giúp bảo tồn rừng, thiên nhiên và động vật hoang dã thông qua quỹ bảo tồn của TP.

Cần phát triển tour du lịch đồng quê về các vùng nông thôn như Hòa Phú, Phước Nhơn ở huyện Hòa Vang nhằm tạo cho du khách tham gia sinh hoạt một cách tự nhiên, thân thiện với môi trường. Đây cũng là xu hướng của sản phẩm mới hấp dẫn du khách quốc tế, mang lại hiệu quả cao, TP Đà Nẵng cần tập trung đầu tư, khai thác.

Du lịch công vụ. MICE được xác định là một trong 3 loại hình cốt lõi của du lịch Đà Nẵng. Thời gian tới, để thúc đẩy loại hình du lịch này phát triển, TP cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Đà Nẵng sớm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với các trang thiết bị đồng bộ, đặc biệt là các khách sạn 3-5 sao, các trung tâm hội nghị lớn với nhiều loại phòng hội nghị đủ tiêu chuẩn phục vụ đa dạng các nguồn khách khác nhau, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ du lịch, đặc biệt là các sản phẩm du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng...


Thành phố cần tổ chức quy hoạch và kêu gọi, vận động các DN trong và nước đầu tư các cụm dịch vu giải trí ẩm thực và mua sắm tập trung, hình thảnh các khu vui chơi giải trí về đêm, hình thành khu mua sắm chuyên phục vụ khách du lịch tại chợ Hàn, phố du lịch Bạch Đằng và đường Trần Hưng Đạo. Phát triển các mặt hàng lưu niệm tại điểm đến các làng nghề nhằm đáp ứng như cầu mua sắm của du khách đến tham gia hội nghị, hội thảo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 194 trang tài liệu này.

Hoàn thành đầu tư, mở rộng, nâng cấp sân bay quốc tế Đà Nẵng nhằm thực hiện nhiều chuyến bay thẳng trực tiếp đến các thị trường MICE quan trọng như Thái Lan, Singapo, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản để tiết kiệm thời gian, bảo đảm sức khỏe cho khách MICE.

Các sở, ban, ngành và các đơn vị lữ hành, lưu trú cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, lên kế hoạch để việc xúc tiến, liên kết các hoạt động MICE để loại hình này có thể triển khai đồng bộ và kịp thời.

Thị trường du lịch thành phố Đà Nẵng trong hội nhập quốc tế - 19

Cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ xây dựng các mô hình liên kết, nhất là giữa các nhà KD phục vụ du lịch MICE như vận tải, lưu trú, lữ hành... Hơn nữa, Đà Nẵng cần liên kết với các Trung tâm MICE nổi tiếng để học hỏi kinh nghiệm và giới thiệu về đất nước Việt Nam, về Đà Nẵng, liên kết giữa các địa phương lân cận như Huế, Quảng Nam... để cùng phát triển loại hình MICE.

* Khôi phục và phát triển các sản phẩm văn hóa đặc trưng của Đà Nẵng để khai thác du lịch

Các sản phẩm của làng nghề tạo ra nên được khai thác để phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu văn hóa, tham quan du lịch của du khách cũng như mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương, góp phần tôn vinh, bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. TP Đà Nẵng, cùng với quá trình hình thành và phát triển của các làng xã ở TP, thì một số làng nghề cũng được hình thành. Ngày trước, trên địa bàn Đà Nẵng đã có các làng nghề truyền thống như nghề dệt chiếu Cẩm Nê, Nghề làm pháo Nam Ô, nghề làm guốc mộc Xuân Dương, nghề điêu khắc đá Non Nước... Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa, một số làng nghề đã bị mai một, không còn phát triển như xưa như nghề làm pháo Nam Ô, nghề làm guốc mộc Xuân Dương. Các nghề khác thì hoạt động vẫn còn mang tính tự phát, sức tiêu thụ không lớn và dần bị thu hẹp do hàng công nghiệp lấn áp, khó duy trì đảm bảo lâu dài, một số sản phẩm dần không còn chỗ đứng như trước, thậm chí có một số hộ đã bỏ hẳn, làng nghề đang dần bị mai một. Nhằm khai thác tốt sản phẩm làng nghề phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu văn hóa, tham quan du lịch của du khách cũng như


mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương, góp phần tôn vinh, bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, TP cần có các giải pháp sau:

Cần quy hoạch phát triển làng nghề. Trong đó, quy hoạch định hướng cho các làng nghề trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của từng địa phương là khâu quan trọng nhất. Từ đó xem xét nghề nào cần bảo tồn, nghề nào cần khôi phục phát triển mở rộng để có hướng đầu tư, hình thành các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề tập trung cho từng vùng, từng địa bàn cụ thể để phát huy lợi thế cạnh tranh. Trước hết, cần bảo tồn và phát huy làng đá điêu khắc Non Nước hiện ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, nằm dưới chân núi Ngũ hành Sơn, đây là một trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Đà Nẵng. Thứ hai, cần phục hồi làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô thuộc phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu. Thứ ba, các làng nghề cần hỗ trợ khôi phục và phát triển như nghề mây tre, đan lát tại xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang.

Mặt khác, để nâng cao thu nhập, tăng mức sống cho người dân nơi đây thì việc phát triển thêm các ngành nghề phụ, như ngành tiểu thủ công nghiệp, để tạo việc làm thường xuyên, kiếm thêm thu nhập là một hoạt động hết sức cần thiết. Các hoạt động mà Nhà nước cần tập trung hỗ trợ để thúc đẩy làng nghề này phát triển là: Duy trì và trồng mới vùng nguyên liệu trên địa bàn để phục vụ làng nghề, cấp vốn không lãi suất để các hộ duy trì sản xuất và tái đầu tư, cung cấp trang thiết bị và hỗ trợ kỹ thuật, mẫu mã cho sản phẩm đáp ứng với nhu cầu của thị trường và tìm đầu ra cho sản phẩm mang tính bền vững... Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ phát triển các sản phẩm làng nghề với bảo vệ môi trường, mở rộng mặt bằng khắc phục được tình trạng tự phát nhỏ lẻ thiếu sức cạnh tranh như hiện nay.

Chính quyền TP cần có chính sách hỗ trợ về nguồn vốn, thuế, lãi suất tín dụng, công nghệ, marketing, ưu đãi về sử dụng tài nguyên nguyên liệu cũng như đào tạo nhân lực cho các làng nghề.

Thực hiện liên kết giữa Nhà nước, DN và làng nghề nhằm tìm kiếm khai thác thị trường tiêu thụ bền vững cho sản phẩm hàng hóa, hỗ trợ thông tin, đăng ký thương hiệu, xúc tiến thương mại và đào tạo nhân lực có tay nghề cao đáp ứng cho nhu cầu hội nhập của các làng nghề.

Đối với mặt hàng lưu niệm. Trong những năm qua, thị trường hàng lưu niệm vẫn chưa thực sự phát triển xứng tầm với tài nguyên văn hóa vốn có của Đà Nẵng, mặc dù chính quyền TP đã có nhiều chính sách, hỗ trợ đối với hàng lưu niệm. Để thị trường mặt hàng này phát triển hơn, hơn hết phải có sản phẩm mang đặc trưng của Đà Nẵng


để khi du khách đến Đà Nẵng là nghĩ ngày tới sàn phẩm này giống như búp bê gỗ Maytryoshka của Nga... thiết nghĩ TP nên có kế hoạch, chiến lược phát triển trước mắt và lâu dài. Trước mắt, cần duy trì chính sách hỗ trợ về vốn, nhân lực, mặt bằng..., tạo điều kiện chính sách ưu đãi khác để thu hút thêm nhiều DN tham gia thị trường này. Về lâu dài cần có lộ trình phát triển và phải tổ chức cuộc thi thiết kế mẫu mặt hàng lưu niệm đặc trưng của Đà Nẵng, sản phẩm này phải chứa đựng văn hóa, văn minh của Đà Nẵng, không chỉ phục vụ du khách trong và ngoài nước khi đến TP, mà còn làm cho hình ảnh, văn hóa, con người Đà Nẵng vươn ra thị trường quốc tế.

4.2.4. Nâng cao năng lực hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường du lịch thành phố Đà Nẵng trong hội nhập quốc tế

Năng lực hoạt động của chủ thể du lịch thể hiện năng lực cung ứng các hàng hóa, dịch vụ trên TTDL, nếu các chủ thể KD du lịch có quy mô lớn, có sự liên kết chặt chẽ với nhau, cung ứng đa dạng hàng hóa, dịch vụ du lịch với chất lượng cao sẽ thúc đẩy cầu du lịch phát triển, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể trên TTDL trong thời kỳ hội nhập. Trong những năm qua, TTDL TP đã thu hút được nhiều thành phần kinh tế, nhiều chủ thể KD du lịch trong và ngoài nước đến đầu tư, kinh doanh trên TTDL cung cấp khá đa dạng các hàng hóa, dịch vụ du lịch, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Tuy vậy, quy mô các cơ sở KD du lịch còn nhỏ, chất lượng phục vụ hàng hóa dịch vụ chưa cao, chưa thật sự đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, đặc biệt nhu cầu của du khách vào mùa cao điểm. Mặt khác, chưa có sự liên kết giữa các nhà KD du du lịch trên các lĩnh vực (lưu trú, ăn uống, lữ hành..) dẫn đến tình trạng phát triển không cân đối giữa các lĩnh vực kinh doanh du lịch. Vì vậy, trong thời gian tới quyền TP cũng như các chủ thể KD du lịch cần có những giải pháp phù hợp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực KD của các chủ thể kinh tế trên TTDL, đồng thời nâng cao chất lượng của của cung du lịch, chính:

Đối với chính quyền TP. Cần có chính sách, cơ chế thu hút đầu tư về du lịch, các chính sách hỗ trợ về: thuế, tín dụng, đất đai, đào tạo nhân lực... nhằm tăng số lượng và chất lượng đối với các chủ thể KD du lịch trên địa bàn TP.

Một là, chính sách thu hút đầu tư. TP cần rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách về cải thiện môi trường đầu tư, KD nhằm hình thành môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, tạo sự bình đẳng giữa các DN trong và ngoài nước. Trong thời gian đến cần tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như du lịch đường thủy nội địa, các khu vui chơi, mua sắm giải trí về


đêm, đầu tư vào nâng cấp các điểm du lịch, các... Về thủ tục đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP phải nỗ lực cải cách thủ tục hành chính một cách mạnh mẽ, thông qua cơ chế một cửa liên thông, đặc biệt thủ tục cấp phép đầu tư cần thực hiện nhanh gọn nhằm giảm bớt phiền hà cho các nhà đầu tư. Cần khuyến khích thủ tục đăng ký thành lập DN mới qua mạng internet nhằm rút ngắn thời gian đăng ký cho các nhà đầu tư. Mặt khác, cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát ngăn chặn kịp thời các hiện tượng nhũng nhiễu, phiền hà cho trong thủ tục cấp phép đầu tư.

Hai là, chính sách đất đai. Tạo điều kiện cho DN tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất KD, TP cần chỉ đạo các cấp, ngành rút ngắn thời gian thực hiện đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, các DNKD lữ hành, dịch vụ ăn uống thường thiếu mặt bằng để mở rộng sản xuất, việc thuê mặt bằng chủ yếu thuê của các hộ gia đình, nên tính ổn định không cao, giá cả thất thường, làm ảnh hưởng tới quá trình phát triển DN. Vì thế, chính quyền địa phương nên tổng kiểm kê quỹ nhà, và đất. Các trụ sở, các dự án đang được sử dụng không đúng mục đích hoặc không được sử dụng theo quy định của pháp luật thì phải thu hồi, tạo điều kiện cho các DN dinh doanh du lịch thuê lâu dài, giá cả theo thị trường và minh bạch, qua đó thúc đẩy các chủ thể KD, đầu tư.

Cần áp dụng chính sách miễn giảm tiền thuê đất tùy theo vị trí, mục đích và thời gian sử dụng của từng dự án. Đối với các dự án có vị trị đẹp, đắc địa nên thực hiện đấu giá công khai để đảm bảo công bằng cho các DN và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đối với các dự án liên quan đến diện tích rừng tự nhiên được chuyển đổi vào dự án KD cần phải gắn trách nhiệm trồng rừng thay thế và bảo vệ môi trường với chủ đầu tư, vừa đảm bảo mục đích KD vừa đảm bảo không phá vỡ môi trường sinh thái. Nên kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với các chủ đầu tư về sức tác động sản xuất, KD của DN đối với môi trường trên địa bàn, từ đó có biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn ô nhiểm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái của TP.

Ba là, chính sách hỗ trợ về thuế. Cần có chính sách ưu đãi, miễn giảm, tăng thời gian ưu đãi đối với các DN trong gia đoạn đầu KD, cần có chính sách riêng của TP về hỗ trợ các DN về đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư nhằm tạo sức hấp dẫn trong đầu tư vào du lịch. Trong năm những tới, các chính sách thuế cần phải theo hướng giản đơn hơn nữa trong các khâu kê khai và nộp thuế.

Bốn là, chính sách tín dụng, vốn. Cần tiếp tục phát huy vai trò của Qũy đầu tư phát triển của TP Đà Nẵng nhằm tạo điều kiện cho các DN trên địa bàn vay vốn đúng mục đích. Đối với các DN nhà nước cần xóa bỏ triệt để bao cấp vốn của nhà nước, thực


hiện tự chủ trong KD nhằm vươn lên làm tốt vai trò chủ đạo của thành phần kinh này. Đối với các DN đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch cần áp dụng hình thứ BT, BOT, BTO để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đối với các DN ngoài nhà nước (DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần) đang hoạt động hợp pháp và có khả năng trụ vững trên thị trường cần khuyến khích và tạo điều kiện vay vốn từ quỹ bảo lãnh tín dụng của TP để nâng cao năng lực KD của mình. Đối với hộ KD cá thể và tổ hợp tác KD dịch vụ du lịch với điều kiện vốn thiếu, quy mô KD đa số nhỏ lẻ, chủ yếu một người KD, TP nên có chính sách hỗ trợ về vốn thông qua vay ưu đãi của ngân hàng chính sách xã hội TP tạo điều kiện để các hộ KD có hiệu quả. Song cần phải giám sát chặt sẽ hiệu quả sử dụng vốn vay của các hộ.

Ngoài ra, TP cần có chính sách thu hút vốn đầu tư từ trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn FDI. Khuyến khích các DN huy động vốn từ thị trường chứng khoán, hoặc huy động trái phiếu, tín phiếu với sự đảm bảo của TP cho các công trình trọng điểm.

Năm là, chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực. Một trong những hạn chế của các DNKD du lịch trên địa bàn là trình độ quản lý của chủ DN, các hộ KD du lịch, tổ hợp tác và cán bộ quản lý còn yếu, thiếu kinh nghiệm; trình độ, kinh nghiệm và tay nghề của người lao động chưa cao. Vì thế TP phải phối hợp các bộ, ban, ngành, các cơ sở đào tạo trên địa bàn lập kế hoạch, đào tạo, đào tạo lại lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động cho các DN, các hộ KD du lịch. Mặt khác, cần tổ chức những lớp tập huấn về kỷ năng quản lý, kỷ năng sử dụng khoa học công nghệ trong quản lý nhằm nâng cao năng lực quản lý cho các DN, các hộ KD.

Đối với các chủ thể KD du lịch. để DNKD du lịch phát triển bền vững, hội nhập sâu vào nền kinh tế, thì việc xây dựng chiến lược KD có tính dài hạn là đòi hỏi tất yếu đối với các DNKD du lịch trên địa bàn TP. Để xây dựng chiến lược KD hợp lý, trước hết phải căn cứ vào mục tiêu KT-XH của TP đề ra và chiến lược phát triển KD của ngành du lịch; căn cứ vào nhu cầu thị trường đối với sản phẩm, dịch vụ; căn cứ năng lực sản xuất, KD của mình (năng lực về vốn, máy móc, kỹ thuật, trình độ quản lý, lao động...)...

Các DN phải huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn kể cả vốn cố định và vốn lưu động. Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, trước hết các chủ thể cần phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân


hàng cung ứng. Các chủ thể cần quan tâm hơn đến các báo cáo tài chính - đây được coi là công cụ được sử dụng để công bố những hoạt động KD của DN mình.

Các chủ thể KD du lịch cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đây là vấn đề cốt yếu để nâng cao hiệu quả KD của các chủ thể kinh tế. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải có kế hoạch cho việc tuyển dụng, đào tạo và tái đào tạo nhân viên cũng như người quản lý. Cần thực hiện chế độ kiểm tra, đánh giá, đề bạt, khen thưởng hợp lý, làm tốt khâu này sẽ khuyến khích động viên mọi người tích cực công tác, rèn luyện và không ngừng vươn lên đồng thời tạo điều kiện thu hút người lao động giỏi.

Trong xu thế mở của và hội nhập, công nghệ luôn là yếu tố được các DNKD du lịch quan tâm nhằm nâng cao năng lực KD của mình. Các DN phải đầu tư đổi mới công nghệ, tuy nhiên, cần chú trọng những công nghệ phù hợp, ít tốn nhiên liệu và ô nhiểm môi trường, không nhất thiết phải thay đổi toàn bộ mà thay đổi từng khâu, từng đoạn đem lại hiệu quả cao nhất với số vốn đầu tư phù hợp.

Các chủ thể cần tăng cường chiến lược marketing nhằm xây dựng và phát triển thương hiệu. Các chủ thể KD du lịch trên địa bàn thường mới chỉ dừng lại ở cấp độ phát tờ rơi, quảng cáo thông qua internet. Vì thế, nhiều DN gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, hợp tác đầu tư du lịch. Để hoạt hoạt động marketing hiệu quả trước hết cần chủ động xây dựng chiến lược dài hạn về thị trường trong nước và nước ngoài. Về thị trường nội địa, trước hết là thị trường miền Trung và Tây Nguyên, phải coi đây là thị trường trọng tâm cần tập trung mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại lý, chi nhánh, từng bước mở rộng kênh phân phối ra phía Bắc và phía Nam. Đối với thị trường nước ngoài, đẩy mạnh tìm kiếm mới và mở rộng thị trường đã có. Hằng năm, TP cũng như trong cả nước thường tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ quốc tế, trong nước về du lịch… Đây là dịp mà các DN cần tích cực tham gia nhằm giới thiệu về sản phẩm của mình. Tìm kiếm đối tác và thu thập thông tin từ khách hàng, từ đó điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp.

Trong điều kiện hội nhập, các chủ thể KD du lịch trên địa bàn muốn thắng lợi trong cạnh tranh thì phải xây dựng thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương hiệu hàng, trước hết các chủ thể cần phải lựa chọn một mô hình thương hiệu hợp lý, phù hợp với chủng loại hàng hóa KD và điều kiện thực tiễn của DN về tài chính, nhân lực, thị trường. Từ đó, xây dựng chiến lược tổng thể xây dựng và phát triển thương hiệu.


4.2.5. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tiến và quảng bá du lịch trên thị trường du lịch thành phố Đà Nẵng trong hội nhập quốc tế

Để TTDL TP Đà Nẵng ngày càng mở rộng, hội nhập sâu hơn với TTDL của khu vực và thế giới trong đó có phần đóng góp quan trọng của công tác xúc tiến, quảng bá. Trong thời gian qua, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của TP đã được xúc tiến đẩy mạnh, những tính chuyên nghiệp chưa cao, mới dừng lại ở các chương trình tour, tuyến du lịch, chưa chú trọng đến truyền thông, quảng bá du lịch qua Internet và xúc tiến du lịch tại chỗ. Mặt khác, nội dung quảng bá chưa chú trọng đến sản phẩm du lịch chủ lực của TP nhằm nâng tầm thương hiệu điểm đến, thu hút ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước, chưa liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và DN trong quảng bá du lịch. Chưa đẩy mạnh quảng cáo chuyên đề và tập trung lực quảng bá cho TTDL trọng điểm. Vì thế, phần nào ảnh hưởng đến việc mở rộng thị trường, nhất là thị trường các nước phát triển. Để TTDL TP Đà Nẵng phát triển và hội nhập sâu hơn với TTDL quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 thu hút 8 triệu lượt khách du lịch trong đó 6 triệu lượt khách trong nước và 2 triệu lượt khách quốc tế và đến năm 2025 dự kiến sẽ thu hút 5 triệu lượt khách quốc tế và 17 triệu lượt khách trong nước. TP cần có chiến lược, kế hoạch cho công tác xúc tiến và quảng bá du lịch trên cơ sở nghiên cứu khảo sát thị trường, tạo dữ liệu cho các thị trường đặc biệt là các thị trường trọng điểm.

Về cách thức và phương tiện quảng bá du lịch.

Hiện nay, công tác truyền thông, quảng bá du lịch qua Internet vẫn còn hạn chế, một mặt do thiếu kinh phí, mặt khác do các DNKD du lịch vẫn chưa có tiếng nói chung trong việc liên kết hỗ trợ thông tin cho nhau. Vì thế, để tận dụng tối đa các lợi ích từ truyền thông Internet TP cần phải xây dựng một chiến lược quảng bá chuyên nghiệp nhằm hạn chế tính tự phát trong quảng bá du lịch của các DN. Việc phát triển các trang điện tử phục vụ quảng bá du lịch là yếu tố quan trọng để xúc tiến điểm đến của địa phương, thúc đẩy nhanh lượng khách đến TP, tăng thời gian lưu trú và chi tiêu của du khách. Việc quảng bá du lịch qua Internet là giải pháp tiếp thị cần được ngành du lịch TP ưu tiên trong thực hiện chiến lược phát triển trong giai đoạn mới. Quảng bá thông qua các công cụ mạng xã hội Facebook, Fanpage và mạng chia sẻ Youtube, Twitter, Instagram theo hướng thi hiếu sử dụng của từng thị trường. Tăng cường quảng bá trên các trang marketing online, triển khai Bản tin điện tử du lịch (E-Newsletter) và bộ ấn phẩm marketing du lịch điện tử đa ngôn ngữ. Hình thành và phát triển mạng lưới cộng tác viên blogger du lịch Đà Nằng tại các thị trường trọng điểm. Tổ chức các cuộc thi

Xem tất cả 194 trang.

Ngày đăng: 16/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí