Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 36


Chiêu thư khách ai tư vị dĩ, hữu tâm hoài Thương Lĩnh(1) chi bạch mi; Hiến ngôn nhân chiêm ngưỡng vô nhai, hà xứ mịch Chu gia chi hoàng cẩu(2).

Cảm Tiên sinh giả giang hà giai biến sắc, thủy hàm huyết lệ ba ba; Tư Tiên sinh giả trùng nghĩ diệc thương tâm, chu kết sầu ti lũ lũ.

Thiên cổ hữu hoài, bội thiết du du; Bách tải nhi kim, do hoài vũ vũ.

Vân yên lãnh đạm, giang thượng nhàn từ; Hoa thảo sâm si, thôn đầu tế vũ.

Song phong văn trúc, ám nghi trác lập chi chân tung; Thiên lý đại đê, tổng thị nhàn du chi

cố bộ.

Nhất phiên thị chi nhật kỳ y cựu, thị thượng hành nhân huyên náo, khái Tiên sinh chi âm

hưởng dĩ bất đắc văn; Nhất Phật tự chi cơ chỉ như tân, tự trung di tượng đoan trang, nhạ Tiên sinh chi dung nghi như hữu sở đổ.

Thạch bi nãi Tiên sinh sở chế dã, mộ Tiên sinh nhi dục cầu kỳ tích, tắc tự ngân thâm thiển, đài xâm thạch diện nhất tàn bi; Dung thụ nãi Tiên sinh sở tài dã, mộ Tiên sinh nhi dục tức kỳ chân, tắc điều cán dung sơ, tuyết nhiễm dung đầu nhất lão thụ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Hàn Giang nãi Tiên sinh sở cư dã, vọng Tiên sinh ư giang chi biểu giả, chỉ kiến giang chi ba giang chi triều; Bạch Vân nãi Tiên sinh tự danh dã, vọng Tiên sinh ư vân chi thượng, chỉ kiến vân chi tán vân chi tụ.

Khởi duy vân tai! Tiên sinh kỳ thu dương. Khởi duy giang tai! Tiên sinh kỳ Giang Hán(3). Tiên sinh chi danh nguyên tự tại, tức thu dương chi trường chiếu, Giang Hán chi trường lưu; Khởi duy thụ tai! Tiên sinh kỳ lâm tẩu. Khởi duy thạch tai! Tiên sinh kỳ Thái Sơn. Tiên sinh chi đạo uyển nhiên tồn, tức lâm tẩu chi thường vinh, Thái Sơn chi thường cố.

Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 36

Cốt khả mai nhi Tiên sinh chi danh bất khả mai; Cốt khả hủ nhi Tiên sinh chi danh bất

khả hủ.


Triều dã mê đương cục(4), cố bất túc dĩ ti Tiên sinh dã, nhi Tiên sinh diệc bất dĩ thị vi long

ô; Khấu đạo hữu kính tâm, cố bất túc dĩ tôn Tiên sinh dã, nhi Tiên sinh diệc bất dĩ thị vi hỉ nộ.

Hỗn nhiên thiên lý, hà oán hà vưu; Thuần hồ đạo tâm, vô hiếu vô ố.

Tiên sinh chi tiết, cao hồ thu sương nghiêm ngưng; Tiên sinh chi đức, thuần hồ xuân phong hòa hú.

Tiên sinh chi học, Chu Trình Trương Châu(5); Tiên sinh chi thống, Vũ Thang Văn Vò(6). Nhân tâm hàn sương, Tiên sinh vi nhật tinh; Nhân tâm đồi ba, Tiên sinh vi chỉ trụ.

Vô thiểu tà khúc, thị Tiên sinh chi môn; Sở cược khang trang, thị Tiên sinh chi lộ.

Tiên sinh chi hành dã, bất lập dị dĩ vi cao; Tiên sinh chi tàng dã, bất huyễn danh dĩ cầu

thụ.


1 Thương Lĩnh: Thương Sơn, nay ở phía đông nam Thương Huyện tỉnh Thiểm Tây.

2 Bạch mi, hoàng cầu: Người già cả.

3 Giang Hán: Sông Trường Giang và sông Hán, hai con sông lớn của Trung Quốc.

4 Mê đương cục: “Đương cục giả mê”, nghĩa là người đang làm việc gì đó có khi vì bối rối mà không biết cách xử lý.

Trái với “Bàng quan giả liệu”: Người đứng bên ngoài nhìn vào thì rò hơn. Câu này có lẽ ý nói về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm trước là bề tôi nhà Lê, sau lại làm quan nhà Mạc.

5 Chu: Chu Hi; Trình: Trình Di; Trương: Trương Tái; Châu: Châu (Chu) Đôn Di. Đều là các bậc danh nho đời Tống.6 Vũ: Vua khởi nghiệp nhà Hạ; Thang: Vua khởi nghiệp nhà Thương; Văn: Văn vương, Vò: Vò vương, hai vị thánh quân đầu nhà Chu.


Tiên sinh chi tồn dã, thiên hạ đạt tôn; Tiên sinh chi khứ dã, hậu nhân vô đố.

Đàm Tiên sinh đạo đức, tưởng như mục chi kiến nhĩ chi văn; Tụng Tiên sinh văn chương, bất giác túc chi đạo thủ chi vũ.

Án đăng khoa thực lục, nhi Tiên sinh chi tính tự chiêu ư xích độc giản biên(1); Ngoạn nhàn hứng chư thi, nhi Tiên sinh chi tài danh dật ư trường chương đoản cú.

Bách thế như nhất nhật, dũ viễn nhi dũ quang; Thiên cổ như nhất niên, khả kính nhi khả

mộ.


Danh lưu ư thập bát am(2); Đạo tồn ư thiên vạn cổ.

Truy tích tiên khai nghĩa lý, thực khai đạo học chi uyên nguyên; Vu kim vĩnh lại tác

thành, quân nhập tiền giai chi quy củ.

Ấp di quang nhi di thiết chiêm y; Ngưỡng tiên giác nhi bất thăng quyến chú.

Dịch nghĩa(3)

Văn tế Trình Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm

Mây mờ dãy Lĩnh(4), cỏ cây vườn cũ phai màu; Nước lặng trước am(5), nguồn gốc đạo ta như cũ.

Lặng nhớ khi cẩn trọng ti hào; Ngửa trông vẻ ung dung cổn phủ(6). Kính nhớ tiên sinh:

Bể Đông Hải chung linh; Núi Nam Sơn dục tú.

Mắt tai sáng suốt, trời xanh phú dữ vốn không nghèo; Bụng dạ mở mang, đạo lớn uẩn tàng nguyên sẵn có.

Muôn thiên đọc khắp, học tài chẳng kém Âu Tô; Bảy bước thành thơ, văn lực không nhường Lý Đỗ.

Đạo đã nên chính đại quang minh; Nghề chẳng những từ chương huấn hỗ.

Sáu bộ Thi Thư suốt nghĩa, bơi thuyền đến bến Khổng phu(7); Một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử.

Ngang trời dọc đất, cùng lòng Chu tể tâm tư; Suy trước biết sau, học lối Nghiêu phu môn

hộ.

Đạo chứa chan một bụng kinh luân; Văn tô điểm suốt mình cẩm tú.

Thanh giá nức tràng Ung cung Phán, đường dài vó ký ruổi giong; Công danh tranh khoa

Hán bảng Đường(1), áo gấm ban ngày rực rỡ.


1 Xích độc giản biên: Chỉ chung sách ghi chép văn thơ xưa.

2 Thập bát am: Chưa tìm được nguồn gốc chính xác. Có 2 thuyết: 1. Vùng Hải Châu của Trung Quốc thời xưa Phật giáo rất phát triển, khắp vùng có “cửu am thập bát miếu” (9 am, 18 miếu). Đây không phải con số xác chỉ mà ý nói có rất nhiều am miếu; 2. Khắp dãy núi Đào Lĩnh có 18 ngôi am miếu, nên Đào Lĩnh còn được gọi là Phúc Thánh sơn. Câu văn tế này có lẽ nói lời sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm linh nghiệm, nổi tiếng khắp các thần từ, Phật tự, đạo quán xa gần.

3 Bản dịch này có một số câu sử dụng theo Phong Châu [21; 6-9], các câu khác có khảo dị với bản dịch.

4 Bản dịch: Mây mờ đỉnh núi.

5 Bản dịch: Nước lặng mặt ao.

6 Bản dịch: Lặng nhớ ti hào; Ngửa trông cổn phủ.

7 Bản dịch: …bơi thuyền đến bến thầy Chu.



đó.

Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn, văn đã viết xong; Bảng vàng rộng mở năm mây, tên đà treo


Bao đợt văn môn bay nhảy(2), năm trường sĩ tử thảy tri danh; Một mình lý học tinh thông,

hai nước anh hùng không đối thủ.

Văn chương rực rỡ như núi sông ở dưới đất, như ngôi sao ở trên trời; Phẩm loại tốt vời như phượng hoàng trong loài chim, như kỳ lân trong loài thú.

Đạo cả không gì sánh, đức sáng chẳng gì bằng; Thể không gì chẳng chu, dụng không gì chẳng đủ.

Đạo thống Thánh nhân tự Tiên sinh mà truyền ra; Bờ còi Thánh nhân duy Tiên sinh là thấu đáo.

Những tưởng đạo ngày càng sáng, cửa đã thông Trâu Lỗ cung tường(3); Hay đâu sinh chẳng gặp thời, đời khá thiếu Lư Chu vũ trụ(4).

Ngán thay Tạo hóa thật vô tâm; Nỡ để thánh hiền thường bất ngộ.

Mạnh Đại hiền gặp buổi Chiến Quốc can qua; Nhan Á thánh sinh thời Xuân Thu phong

vũ.


Gia Cát không sinh thời Viêm Hán huy hoàng; Hứa Tử lại gặp bọn cường Nguyên di lỗ. Một chữ “thời” tiền triết như nhiên; Ngàn muôn thuở Tiên sinh chẳng phụ.

Sự bất đắc dĩ, Tiên sinh cũng phải tòng quyền; Trời thực xui nên, Tiên sinh há không

thính thụ.

Thước tầm đo đắn, sự thể phân minh; Nặng nhẹ cân lường, lẽ thường tỏ rò.

Chúa Kiệt vẫn là kẻ bạo, gác xe chẳng ngại năm lần(5); Nước Lương không có thể làm, cuốn áo đã chừng ba độ.

Tự nhàn hưởng dật thú thiên dân; Tri túc rò tiên cơ Lão Tử.

Khuyên người làm thiện, khoáng đạt tính tình; Giúp vật phồn vinh, tiêu dao điền thổ.

Thi hào các quẻ, hiểu thông trời đất bí tàng; Thi tập toàn thiên, điểm tô bốn mùa cổn phủ. Vui đạo trời phong thái ung dung; Vịnh cảnh đẹp nỗi niềm phúng dụ.

Trăng trong gió mát, thỏa lòng chẳng thể gọi tên; Nước trí núi nhân, thích tính còn hơn giàu có.

Thờ ai chẳng là vua, vui gì chẳng là đạo(6), một một vừa nhiệm vừa thanh; Đã có ích cho mình, lại có lợi cho người, đôi bề được danh được thọ.

Học tài trong thiên hạ là thầy; Tuổi tác với mọi người là bố.

Trên người thiên quan địa lũ, gánh vác cương thường; Trong lòng Thương đỉnh Chu đôn, ẩn tàng châu báu.


1 Bản dịch: …khoa Tống bảng Đường.

2 Bản dịch: Ba đợt vũ môn bay nhảy.

3 Bản dịch: …cửa đã thông Châu Lỗ cung tường.

4 Bản dịch: …đời nào phải Đường Ngu vũ trụ.

5 Bản dịch: …ba lần.

6 Bản dịch: Vực gì chả là đạo.


Tiết bền vẫn giữ tấm đan trung; Chí vững chẳng dời khi bạch thủ.

Ngày tháng Kiều Bành còn rộng rãi, áo nhà Chu còn rủ chốn đông giao; Quân dân Nghiêu Thuấn vẫn trông chờ, lân nước Lỗ đã gặp ngày Tây thú.

Thương thay thời vận khôn lường; Ngán nỗi đầy vơi có số.

Ông Vũ hầu đến kỳ tinh lạc, còn mong gì nghiệp bá nỗi nhà Lưu; Đức Phu tử tới lúc phượng suy, không có thể đạo vương thờ nước Lỗ.

Dựng trời chí khí, sương sớm giăng mờ; Gột nhật công lao, mây chiều vần vũ.

Khách nhận thư ngậm ngùi không dứt, nhớ khôn cùng Thương Lĩnh bạch mi; Người trao lời đau đáu vô biên, tìm đâu thấy Chu gia hoàng cẩu.

Cảm Tiên sinh núi sông đều biến sắc, nước tràn máu lệ đòi phen(1); Nhớ Tiên sinh sâu kiến cũng đau lòng, nhện kết sầu tơ khôn gỡ(2).

Luyến lưu muôn thuở, thương nhớ ngậm ngùi; Mường tượng trăm năm, ngóng trông vò

vò.


Đền bên sông lạnh lẽo khói mây(3); Nhà đầu xóm ủ ê hoa cỏ.

Núi cao chót vót, ngỡ ngòi văn trác tuyệt khoe tài; Bờ rộng thênh thang, vốn gót hài ung

dung tản bộ.

Chợ nọ phiên kỳ vẫn họp, khách buôn huyên náo, bùi ngùi Tiên sinh âm hưởng vắng không(4); Chùa kia cơ chỉ vẫn còn, tòa Phật trang nghiêm, những tưởng Tiên sinh dung nghi còn đó.

Bia đá của Tiên sinh dựng, nhớ Tiên sinh muốn tìm dấu cũ thì nét chữ mờ mịt, rêu chen mặt đá đã thành ra một chiếc tàn bia; Cây đa của Tiên sinh trồng, nhớ Tiên sinh muốn ngắm cảnh xưa thì cành lá lơ thơ, tuyết rủ đầu cây đã hóa thành một chòm cổ thụ.

Hàn Giang là chỗ Tiên sinh ở, trông Tiên sinh ở trên sông ấy chỉ thấy khi nước xuống khi nước lên; Bạch Vân là tên Tiên sinh đặt, trông Tiên sinh ở trên mây kia chỉ thấy đám mây tan đám mây tụ.

Nhưng Tiên sinh há những như mây! Tiên sinh là bóng thu dương. Tiên sinh há những như sông! Tiên sinh là dòng Giang Hán. Tên Tiên sinh không bao giờ mất, tức là bóng thu dương sáng mãi, nước Giang Hán chảy tràn; Mà Tiên sinh há những như cây! Tiên sinh là khu rừng lớn. Tiên sinh há những như đá! Tiên sinh là núi Thái Sơn. Đạo Tiên sinh muôn thuở vẫn còn, tức là khu rừng lớn tốt tươi, núi Thái Sơn củng cố.(5)

Xương có tan nhưng Tiên sinh thanh danh không thể tan; Xương đã rũ nhưng Tiên sinh thanh danh không hề rũ.


1 Bản dịch: Nước triều man mác đòi phen.

2 Bản dịch: Tơ nhện vấn vương không gỡ.

3 Bản dịch: Đền trên non lạnh lẽo khói mây.

4 Bản dịch: …mà Tiên sinh âm hưởng vắng không.

5 Sau câu này, bản dịch còn 1 câu (cũng là câu cuối cùng của bản dịch, không có trong bản 1) như sau: “Tưởng ngày đó bóng mây vầng núi, đau lòng thay là lúc chia phôi; Nghĩ buổi nay nguồn nước gốc cây, ngoảnh mặt lại càng thêm cảm mộ.” Có lẽ dịch từ nguyên văn trong bản 4 (các bản 2, 3 cũng không có câu này):

想此日火村雲舘,分手辰空付有天;第今朝木本水源,動念處能無面首 Tưởng thử nhật hỏa thôn vân quán,

phân thủ thời không phó hữu thiên; Đệ kim triêu mộc bản thủy nguyên, động niệm xứ năng vô diện thủ.”


Triều dã lầm đương cục, chẳng đủ trách Tiên sinh, nhưng Tiên sinh cũng không vì thế mà ô đồ; Đạo tặc có kính tâm, chẳng đáng tôn Tiên sinh, nhưng Tiên sinh cũng không vì thế mà hỉ nộ.

Như nhiên thiên lý, chẳng oán chẳng hờn; Thuần khiết đạo tâm, không hiếu không ố.

Tiên sinh nhân đức, ấm như xuân gió đượm nồng; Tiên sinh khí tiết, nghiêm hầu thu sương ngưng tụ.

Tiên sinh học vấn là Chu, Trình, Trương, Châu; Tiên sinh đạo thống là Vũ, Thang, Văn,

Vò.


thụ.


Nhân tâm giá lạnh, Tiên sinh là trời trăng; Nhân tâm suy đồi, Tiên sinh là cột trụ. Chỉn chu giày cỏ, là đường Tiên sinh đi; Chẳng chút lòng gian, là nơi Tiên sinh ngụ.

Tiên sinh nhập thế, chẳng lập dị để tự cao; Tiên sinh lánh đời, không giấu danh để cầu


Tiên sinh còn đó, thiên hạ tôn vinh; Tiên sinh đi rồi, hậu nhân tưởng nhớ.

Bàn Tiên sinh đạo thống, tưởng như mắt thấy tai nghe; Đọc Tiên sinh văn chương, ngờ

đâu chân huơ tay múa.

Xem đăng khoa thực lục, danh tánh Tiên sinh sáng ngời xích độc giản biên; Ngâm nhàn hứng thi ca, tài năng Tiên sinh bàng bạc trường chương đoản cú.

Trăm đời như một buổi, càng vắng lại càng ngời; Muôn thuở như một thời, đáng kính và đáng mộ.

Tên lưu ở mười tám am; Đạo còn với muôn ngàn thuở.

Nhớ xưa khai thông nghĩa lý, thực mở mang đạo học suối nguồn; Đến nay nương tựa tác thành, mãi cậy nhờ tiền nhân quy củ.

Ngóng di quang càng thiết u sầu; Trông tiên giác khôn nguôi quyến cố.


Bài 7. 遞年臘祭先人文 (2; 30b)

先人: 處仁循理; 詢美且良。爰究爰度; 匪居匪康。既高開拓之功,聿胥宇而聚吾村塢;尤偉丹塗之績,據夾區而肇我封疆。因澤因陵,奕世仰遵成憲;

肯堂肯構,億年卒是舊章。培仁基福社之傳,承燕翼功深弗替; 觸地義天經之想,俾雲仍繼序不忘。似績思丹雘厥終,道慚克述;

基勤仰垣墉伊始,德厚流芳。兹因冬季,當生物之成,追遠重懷於孝道;

臘祭謹奉之先礼,升馨庶表於倫常。劇切水源木本,徘徊春樹秋霜。尚其默鍳,錫以具康

。使遠裔于前增賁,永萬年厥後克昌。寔賴先人之大德也。謹告!

Đệ niên lạp tế tiên nhân văn

Tiên nhân:

Xử nhân tuần lý; Tuân mỹ thả lương. Viên cứu viên đạc(1); Phỉ cư phỉ khương(2).

Ký cao khai thác chi công, duật tư vũ(3) nhi tụ ngô thôn ổ;

Vưu vĩ đan đồ chi tích, cứ giáp khu nhi triệu ngã phong cương.

Nhân trạch nhân lăng, dịch thế ngưỡng tuân thành hiến; Khẳng đường khẳng cấu(4), ức niên tốt thị cựu chương.

Bồi nhân cơ phúc chỉ chi truyền, thừa yến dực(5) công thâm phất thế; Xúc địa nghĩa thiên kinh chi tưởng, tỉ vân nhưng(6) kế tự bất vong.

Tự tích tư đan hoạch(7) quyết chung, đạo tàm khắc thuật; Cơ cần ngưỡng viên dung y thuỷ, đức hậu lưu phương.

Tư nhân đông quý, đương sinh vật chi thành, truy viễn(8) trọng hoài ư hiếu đạo; Lạp tế cẩn phụng chi tiên lễ, thăng hinh thứ biểu ư luân thường.

Kịch thiết thuỷ nguyên mộc bản; Bồi hồi xuân thụ thu sương; Thượng kỳ mặc giám; Tứ dĩ cụ khương.

Sử viễn duệ vu tiền tăng bí; Vĩnh vạn niên quyết hậu khắc xương(1).


1 Viên cứu viên đạc: Câu trong Thi kinh “Đại nhã” - “Hoàng hĩ” 爰 究 爰 度 , nghĩa là [Thượng đế] đang tìm kiếm và mưu tính (vì nhà Hạ nhà Thương đã hỏng mất, nên Thượng đế sáng suốt, uy nghiêm lừng lẫy đã đoái trông đến miền Tây cho Thái vương làm nhà ở đấy)

2 Phỉ cư phỉ khang: Câu trong Thi kinh “Đại nhã” - “Công Lưu” 匪居匪康, nghĩa là chẳng chịu ở yên nhàn tản.

3 Duật tư vũ: Câu trong Thi kinh “Đại nhã” - “Miên” 聿胥宇 “Duật lai tư vũ” = Đều đến làm nhà ở (tư vũ: xem xét

để chọn nơi xây dựng).

4 Khẳng đường khẳng cấu: Thư kinh “Đại cáo” có câu 若考作室,既底法,厥子乃弗肯堂,矧肯構 = Cha làm nhà

đã đúng phép, đời con chẳng chịu xây nền, huống gì dựng được nhà.” Về sau dùng chỉ việc con cháu kế thừa được gia nghiệp.

5 Yến dực: Thi kinh “Đại nhã” – “Văn vương hữu thanh” có câu 詒厥孫謀,以燕翼子 “Di quyết tôn mưu, dĩ yến

dực tử” = Truyền kế lâu dài cho cháu, để cho con được yên ổn hiếu kính.” Ý nói cha ông truyền lại kế hay cho con cháu.

6 Vân nhưng: Nhĩ nhã thích thân có câu “Nhưng tôn chi tử vi vân tôn” chỉ cháu chắt đời sau xa như mây bay trên trời.

7 Đan hoạch: Thư - Tử tài: “Duy kì đồ đan hoạch” [như làm nhà, đã siêng năng đắp tường vách rồi, chỉ còn việc trát nhứng lợp tranh; như làm đồ gỗ, đã siêng năng đẽo mộc rồi] chỉ còn việc tô son, thuốc [là xong].

8 Truy viễn: Nhớ công đức tổ tiên.


Thực lại tiên nhân chi đại đức dã. Cẩn cáo!

Dịch nghĩa

Văn tế tổ tiên dịp cuối năm

Các bậc tiền nhân:

Ở theo nhân nghĩa, tính rất hiền lương.

Lo toan đoái tưởng, khó nhọc không màng.

Công khai thác lớn lao, chọn chỗ đất gầy nên xóm ấp; Ơn đắp bồi cao cả, thành khu làng mở rộng thôn hương.

Dựa theo đầm nổng, hậu thế sùng tôn phép tắc; Dựng cao rường cột, ngàn năm gìn giữ cương thường.

Nền nhân móng phước lưu truyền, câu yến dực ơn sâu khó tả; Nghĩa đất giềng trời nhớ giữ, dòng vân nhưng kế tục không quên.

Đời sau nên tô vẽ thêm ngời, tài hèn vẫn quyết; Tường vách mãi bền lâu như cũ, đức sáng luôn thơm.

Nay nhân cuối đông, muôn vật nên hình, hiếu đạo hằng lòng truy viễn; Tế chạp kính lễ tiên linh, dâng hương hầu tỏ luân thường.

Bồi hồi sương thu xuân lá; Thiết tha cây cội nước nguồn. Mong về chứng giám, ban bố phước lành.

Khiến cháu con đời đời hưng thạnh, mãi ngàn năm hậu duệ an khang. Đều nhờ vào đức lớn của tiền nhân. Cẩn cáo!


1 Quyết hậu khắc xương (khắc xương quyết hậu): Chữ dùng trong Kinh Thư, nghĩa là “con cháu đời sau được hưng thạnh rực rỡ”.


Bài 8. 擬祭母文 (4; 90a)

白雲一片,悠悠望斷恒山;綠水三春,渺渺愁深南浦。化机莫測於往來;別緒曷窮於今古

痛惟我母:

敬戒相成;儉勤承裕。生育願完家室,乾始坤生;敷施福在兒孫,豊貽晋受。百年之多壽方期;六袠之流光無度。斑衣春暖,丕濃上壽之觴;騦馭天車,亟覓眞遊之趣。嗟往事之依稀;悵浮生之散聚。閫室之杯棬餘澤,感存已切於穉狂;高堂之明鏡方輝,悼別已完於晚暮。幽懷重感於時遷;大事痛深於歳暮。野外凄凉朔雪,轉思吹棘之凱風;隴頭蕭颯天霜,倍感滋根之春露。思酬答以無由;痛扳援而弗住。華表迟歸丁鶴,依依空緬慈光;草筵聊薦虞牲,耿耿曷勝孺慕。

又體:藕花日暖,正浮萬壽之杯;萱砌寒霜,乍動半仙之枕。浩嘆人生之如幻;長嗟天運之難常。

痛惟我母:婉媚徽姿;貞純懿德。叶鷄鳴之靜好,道相成家;噍鳥羽于漂揺,功完綢户。平格纔登上壽;逍遥遽覔眞遊。雖人生七十古來希,共爲母慰;但仙境八千今幾許,獨怨子虚。傷心反哺之烏;愧色好音之鳥。最是乾元先別袂,離鸞之暌緖奚堪;其如巽索竟違顔,貽燕之豊謀獨自。興言而血泪澘澘;觸想而愁腸[糹屢] [糹屢]

今則:

兆城既奠;筳几肆陳。伊蔚伊蒿,悵一片幽[忄衣]之莫寫;以蘋以藻,幸重泉灵爽之居歆

Nghĩ tế mẫu văn

Bạch vân nhất phiến, du du vọng đoạn Hằng Sơn; Lục thuỷ tam xuân, diểu diểu sầu thâm Nam Phố.

Hoá cơ mạc trắc ư vãng lai; Biệt tự hạt cùng ư kim cổ. Thống duy ngã mẫu:

Kính giới tương thành; Kiệm cần thừa dụ.

Sinh dục nguyện hoàn gia thất; Càn thuỷ khôn sinh; Phu thi phúc tại nhi tôn, phong di tấn

thụ.


Bách niên chi đa thọ phương kỳ; Lục trật chi lưu quang vô độ.

Ban y(1) xuân noãn, phi nùng thượng thọ chi thương; Tư ngự thiên xa, cức mịch chân du

chi thú.

Ta vãng sự chi y hi; Trướng phù sinh chi tán tụ.

Khổn thất chi bôi quyền(2) dư trạch, cảm tồn dĩ thiết ư trĩ cuồng; Cao đường chi minh kính phương huy, điệu biệt dĩ hoàn ư vãn mộ.

U hoài trùng cảm ư thời thiên; Đại sự thống thâm ư tuế mộ.


1 Ban y: Áo hoa sặc sỡ. Lão Lai Tử tuổi 70 còn mặc áo hoa sặc sỡ giả làm con nít xách nước vờ té khóc làm trò vui cho cha mẹ già.

2 Bôi quyền: Bát và môi, những đồ dùng trong bếp. Chỉ mẹ.

Xem tất cả 335 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí