Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 34


Sáu phép dùng binh, vang danh dương liễu thao trường; Năm cách trị dân, mến đức cam đường cổ thụ.

Bóng tùng mùa đông vững chãi chí kiên trinh; Trụ núi giữa dòng nêu cao gương tiết tháo. Tam vinh vẹn phúc, người xưng thần thánh còi đời; Cửu lão vân du, thường dạo Hương

Sơn cảnh tú.

Giảng kinh lại mở nơi nhàn đường; Cảnh muộn sẽ tìm về dật thú.

Rời Quảng Bình đến cửa khuyết, chốn thâm cung mang khí khái gián quan; Nhậm Tư mã ở Lạc Trung, thương sinh đợi cơn mưa vào vụ.

Tuổi cuối đời tài lão luyện kinh luân; Trong mấy tháng phép trị dân ổn thỏa.

Mỗi lúc thọ tinh chiếu sáng, nghĩ trăm năm tuổi hạc da mồi; Nào hay Ky Vĩ chóng bay, theo cánh bướm mải mê mộng ngủ.

Ôi!

Mây phủ hàn sơn, trăng chìm viễn phố.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Khum trời rón đất, nỗi thê lương chẳng thể cạn lời; Biển rộng núi cao, tình luyến mộ khôn phương bày tỏ.

Thanh cao một đời khí phách, băng tuyết đồng tình; Công danh sự nghiệp ngàn năm, văn chương bất hủ.

Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 34

Tinh anh tuy đã nhập với núi sông, tiếng tăm vẫn vang dài cùng vũ trụ. Xa xăm càng thiết thảm sầu; Vòi vọi ngưỡng trông đức độ.

Lặng nhớ mọi điều chung thủy, hận ơn sâu chưa đền đáp tơ hào; Xa trông tiếng nói dáng đi, khi ăn ngủ cũng canh tường thấy rò.

Đến nay:

Hồn thiêng giã từ, bến đời tạm đỗ.

Lễ sơ vật mọn, tướng sĩ bày rượu nhạt vài chung; Địa nghĩa thiên kinh, hậu thế ngưỡng nhân luân vạn cổ.

Ôi đau đớn thay!


Bài 3. 榜忠侯祭心友純忠侯文 (5; 4a)

立天曰陰陽之道,其往來固靡有常; 在人惟朋友之倫,于哀感何能自已。

!此良朋:心地寬和,資天弘毅。韜鈐學富,不孤將種雄風;騎射才全,寔得山西正氣。粵

[+]岐二之形;早重金分之義。年方總角,共從遊於技蓺之场;歲及峩弁,均入侍於宮廷之地。心有孚不膝而堅;情日密如醪之醉。遭時遇主,慶偶逢魚水良緣;出谷遷喬,咸歷掌干戈重寄。塤箎旣慣乆而敬之;裘馬與同敝無憾矣。但謂百年勳業,芳名齊上於景鍾;何期一夜風霜,令友獨遄於蒿里。噫!以此龍人,丁兹蛇歲。人生哀樂,悵逝水之東流;世事榮枯,殆浮雲之北去。已焉哉!天寔爲之;吁嗟矣!人將何其。第念合爲頭尾,如此一龍;静言相照腑肝,來思四紀。撫丹鷄之夙約未寒,乃白露之芳筳遽棄。將遠尋劉阮之逰,胡忍負金蘭之契? 歌殘伐木,嗟求友之良難; 天奪子竒,慨知音之有幾。情難與叙,叙愈傷懷;哀莫能言,言之出涕。江皐遠遣,曷勝薤露之悲; 菲禮具陳,式表生平之誼。嗚呼痛哉!

Bảng Trung hầu tế tâm hữu Thuần Trung hầu văn

Lập thiên viết âm dương chi đạo, kỳ vãng lai cố mị hữu thường; Tại nhân duy bằng hữu chi luân, vu ai cảm hà năng tự dĩ.

Y ! Thử lương bằng:

Tâm địa khoan hòa, tư thiên hoằng nghị.

Thao kiềm học phú, bất cô tướng chủng hùng phong; Kỵ xạ tài toàn, thực đắc Sơn Tây chính khí.

Việt sính kỳ nhị chi hình; Tảo trọng kim phân chi nghĩa.

Niên phương tổng giác, cộng tùng du ư kỹ nghệ chi trường; Tuế cập nga biện, quân nhập thị ư cung đình chi địa.

Tâm hữu phu bất tất nhi kiên; Tình nhật mật như lao chi túy.

Tao thời ngộ chủ, khánh ngẫu phùng ngư thủy lương duyên; Xuất cốc thiên kiều(1), hàm lịch chưởng can qua trọng ký.

Huân trì ký quán cửu nhi kính chi; Cừu mã dữ đồng tệ vô hám hĩ.

Đãn vị bách niên huân nghiệp, phương danh tề thượng ư cảnh chung; Hà kỳ nhất dạ phong sương, lệnh hữu độc thuyên ư cảo lý.

Y!

Dĩ thử long nhân, đinh tư xà tuế.

Nhân sinh ai lạc, trướng thệ thủy chi đông lưu; Thế sự vinh khô, đãi phù vân chi bắc khứ. Dĩ yên tai, thiên thực vi chi; Hu ta hĩ, nhân tương hà ký.

Đệ niệm hợp vi đầu vĩ, như thử nhất long; Tĩnh ngôn tương chiếu phủ can, lai tư tứ kỷ. Phủ đan kê chi túc ước vị hàn, nãi bạch lộ chi phương diên cự khí.

Tương viễn tầm Lưu Nguyễn chi du, hồ nhẫn phụ kim lan chi khế?

Ca tàn Phạt mộc(1), ta cầu hữu chi lương nan; Thiên đoạt Tử Kỳ, khái tri âm chi hữu kỷ.



1 Xuất cốc thiên kiều: Kinh Thi có câu “Xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc.” (Ra từ hang tối, bay lên cây cao), ý nói chim còn biết chọn chỗ cao, huống chi người. Nay dùng tỏ ý phấn đấu lên chỗ cao thượng, vinh hiển.


Tình nan dữ tự, tự dũ thương hoài; Ai mạc năng ngôn, ngôn chi xuất thế.

Giang cao viễn khiển, hạt thăng giới lộ chi bi; Phỉ lễ cụ trần, thứ biểu sinh bình chi nghị. Ô hô thống tai!

Dịch nghĩa

Bài văn tế của Bảng Trung hầu tế bạn thân là Thuần Trung hầu

Lập thiên là đạo âm dương, đến rồi đi vốn chẳng lâu bền; Ở đời có tình bằng hữu, lòng thương cảm nào đâu kể xiết.

Chao ôi! Người bạn tốt này:

Lòng dạ nhu hòa, tính tình cương trực.

Tinh thông thao lược, không hổ danh dòng tướng anh hùng; Kỵ xạ song toàn, thật xứng danh Sơn Tây hào kiệt.

Sớm trọng chữ tâm giao; Đó đây nào phân cách.

Tuổi vừa tết tóc, đã theo nhau học nghệ chung trường; Đến lúc trưởng thành, lại cùng tới cung đình nhậm việc.

Lòng tin yêu luôn chẳng đổi dời; Tình thân mật mãi nồng rượu tiệc.

Đã gặp thời cơ, được phò minh chủ, mừng tao phùng cá nước lương duyên; Ra khỏi hang tối, bay lên cây cao, tay nắm giữ binh quyền trọng trách.

Kết bạn từ lâu hòa kính huân trì; Cừu mã dùng chung nát hư chẳng tiếc.

Đã gọi trăm năm công nghiệp, tiếng thơm ghi khắc ở chuông vàng; Nào hay một tối phong sương, bạn chóng vùi thân nơi cách biệt.

Ôi! Thân tướng là bậc long quy; Tuổi đời lại như rắn rết.

Vui sầu nhân thế, buồn thay nước chảy về đông; Vinh nhục sự đời, ngán nỗi mây bay về

bắc.


Đã thế thôi, trời thực an bài; Ôi vậy rồi, người đành chịu thiệt.

Nghĩ về sự tích xưa nay, như một rồng thiêng; Bốn giềng soi chiếu tâm can, những lời

trinh bạch.

Chưa quên lời hẹn lúc thu đông; Bạch lộ tiệc ngon cam bỏ cuộc.

Còi chu du Lưu Nguyễn đã xa tìm; Câu kết hợp kim lan sao bội ước!

Hát xong bài Phạt mộc, trách than tìm bạn thật khó thay; Trời cướp mất Tử Kỳ, bùi ngùi tri âm đâu chẳng biết.

Tình không thể nói, nói lại càng thương; Đau khó nên lời, lời tuôn nước mắt.

Tạm bày lễ mọn, những mong tỏ nghĩa sinh bình; Xa khuất bến sông, ôm ấp nỗi buồn man mác.

Ôi đớn đau thay!


1 Phạt mộc: Một thiên thuộc phần “Tiểu nhã” trong kinh Thi, nội dung nói về kết bạn và hậu đãi bạn bè.


Bài 4. 祭尊師左侍郎文 (5; 5a)

仰惟尊師:天資純粹,聖學精微。危科早擢,正道自持。木鐸揚聲兮時雨之化;玉階進步兮鴻羽之義。規圓矩方,作津梁於後學;日光水潔,卓星斗於當時。及其門者大成小造,潤其教者魚躍鳶飛。善誘旣神於感發,來旬尢妙於撫綏。山西京北山南海陽,處處仰福星之遍照; 太原高平宣光興化,在在霑惠澤之旁施。外庸旣著, 內政方厘。張弛一循于中道,卷舒各適于時宜。年近七旬,謂懸車之可佇;時方八月,忽飆御之倐馳。嗚呼痛哉!難忱天道;莫測化機。命方期於北斗;身已騎於南箕。致澤素懷終焉抱負;經綸大手未見設施。嗚呼哀哉!泰山其頹兮,小子何仰?樑木其壞兮,小子何依? 虎祲寂聞於玉響; 鳣堂虚掛於彩衣。坐上春風,難再親陪之日;門前冬雪,覺無候立之期。嗚呼哀哉!泉臺永悶;薤露何稀。霧暗臨潮,愁看雲霎;煙迷蘇水,驚換靈輀。念昔時之來見兮,晏晏怡怡,衣冠相慶;撫今朝之相送兮,慇慇戚戚,涕泗交頣。嗚嘑哀哉!杏壇龍去;華表鶴歸。心有求兮弗獲;迹欲訪兮難追

。回瞻東邑故居,有懷曷旣;遙盻姜亭新宅,無淚可揮。想陶淑之深仁兮,涓埃未報;仰作成之厚德兮,旦夕長思。潢水澗毛,寓寸情於哀感; 天經地義,庶萬古之昭垂。嗚呼哀哉!

Tế tôn sư Tả Thị lang văn

Ngưỡng duy tôn sư:

Thiên tư thuần túy, thánh học tinh vi. Nguy khoa tảo trạc, chính đạo tự trì.

Mộc đạc dương thanh hề thời vũ chi hóa; Ngọc giai tiến bộ hề hồng vũ(1) chi nghi.

Quy viên củ phương, tác tân lương ư hậu học; Nhật quang thủy khiết, trác tinh đẩu ư đương thời.

Cập kỳ môn giả đại thành tiểu tạo; Nhuận kỳ giáo giả ngư dược diên phi. Thiện dụ ký thần ư cảm phát; Lai tuần vưu diệu ư phủ tuy.

Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương, xứ xứ ngưỡng phúc tinh chi biến chiếu; Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, chỗ chỗ triêm huệ trạch chi bàng thi.

Ngoại dung ký trứ, nội chánh phương ly.

Trương thỉ nhất tuần vu trung đạo; Quyển thư các thích vu thời nghi.

Niên cận thất tuần, vị huyền xa(2) chi khả trữ; Thời phương bát nguyệt, hốt tiêu ngự chi thúc trì.

Ô hô thống tai!

Nan thầm thiên đạo; Mạc trắc hóa cơ.

Mệnh phương kỳ ư Bắc đẩu, thân dĩ kỵ ư Nam ky.

Trí trạch tố hoài chung yên bão phụ; Kinh luân đại thủ vị kiến thiết thi. Ô hô ai tai!

Thái Sơn kỳ đồi hề tiểu tử hà ngưỡng? Lương mộc kỳ hoại hề tiểu tử hà y?



1 Câu này lấy ý từ Kinh Dịch: “Hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi.” (Con chim hồng tiến trên đất liền, lông nó có thể dùng làm đồ nghi sức), dùng chỉ thái độ cao thượng của người hiển đạt.

2 Huyền xa: Trời sắp tối dừng xe nghỉ ngơi, dùng chỉ quan lại trí sĩ.



chi kỳ.

Hổ tẩm tịch văn ư ngọc hưởng; Chiên đường(1) hư quải ư thái y.

Tọa thượng xuân phong, nan tái thân bồi chi nhật; Môn tiền đông tuyết, giác vô hậu lập


Ô hô ai tai!

Tuyền đài vĩnh muộn; Phỉ lộ hà hi.

Vụ ám lâm hồ, sầu khan vân sáp; Yên mê Tô thủy, kinh vãn linh nhi(2).

Niệm tích thời chi lai kiến hề, yến yến di di, y quan tương khánh; Phủ kim triêu chi tương

tống hề, ân ân thích thích, thế tứ giao di.

Ô hô ai tai!

Hạnh đàn(3) long khứ; Hoa biểu(4) hạc quy.

Tâm hữu cầu hề phất hoạch; Tích dục phỏng hề nan truy.

Hồi chiêm đông ấp cố cư, hữu hoài hạt ký; Diêu hễ khương đình tân trạch, vô lệ khả huy.

Tưởng đào thục chi thâm nhân hề, quyên ai vị báo; Ngưỡng tác thành chi hậu đức hề, đán tịch trường tư.

Hoàng thuỷ giản mao, ngụ thốn tình ư ai cảm; Thiên kinh địa nghĩa, thứ vạn cổ chi chiêu

thùy.


Ô hô ai tai!

Dịch nghĩa


Kính nghĩ tôn sư:


Văn tế tôn sư là quan Tả Thị lang

Thiên tư thuần phác; Thánh học tinh vi. Khoa cao sớm đạt; Chánh đạo ai bì.

Danh tiếng vang xa chừ, ơn giáo hóa như cơn mưa mùa hạ; Tới lui đĩnh đạc chừ, xem phong thái như hồng vũ dung nghi.

Quy tắc tròn đầy, là mối giềng cho hậu học; Văn tài trác tuyệt, sánh tinh đẩu ở đương thời. Theo học với người, lớn nhỏ đều thành tựu; Nhuần đạo của người, chim cá thảy tung bay. Khéo khuyên dỗ đã tài tình cảm hóa; Giỏi trị dân càng thần diệu vỗ về.

Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương ngưỡng phúc tinh soi khắp chốn; Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa hưởng huệ trạch đến mọi nơi.

Việc bên ngoài công lao sáng tỏ; Việc bên trong sau trước an bài.


1 Chiên đường: Nhà học, còn gọi đàn tự nghĩa là giảng đường. Hậu Hán thư chép: Có con chim sẻ đầu có mào (quan tước) ngậm ba con cá chiên bay đến đậu trước nhà học. Người trưởng tràng ra lấy cá dâng lên thầy, nói: “Loài rắn và cá chiên tượng về hàng quan Khanh Đại phu. Nay số lên ba tức là Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái bảo). Tiên sinh chức quan từ đây mà thăng tiến.”

2 Linh nhi: Xe đưa tang.

3 Hạnh đàn: Nơi Khổng Tử dạy học. Đời Hán, Minh đế thường đến đây, người đời sau nhân thế mà dựng điện. Đời Tống, Nhân Tông mở rộng sân điện, xung quanh trồng nhiều cây hạnh, dựng nhà bia khắc hai chữ triện “Hạnh đàn”.4 Hoa biểu: Cái cột đá ở trên mộ. Đình Lệnh Uy ngày xưa chết đi, hồn hóa làm con chim hạc, đêm thường bay về đậu ở đó.


Lúc co giãn luôn trung dung đúng đạo; Khi duỗi cong cũng thuận phép tùy nghi.

Tuổi gần bảy mươi, đã đến lúc huyền xa dừng bước; Thời vừa tháng tám, bỗng một khi gió bão đầy trời.

Ôi đau đớn thay!

Khó lường thiên đạo; Khôn đoán hóa cơ! Mệnh rắp mong Bắc đẩu; Thân lại gửi Nam ky.

Tạo phúc muôn dân vẫn còn ấp ủ; Kinh luân mưu lớn chưa kịp thực thi. Ôi thương tiếc thay!

Thái Sơn đã đổ chừ, tiểu tử đơn độc; Rường cột đã mục chừ, tiểu tử chơi vơi. Trướng da hổ ngọc âm nghe phảng phất; Nơi giảng đường xiêm áo vẫn uy nghi. Trên bệ gió xuân, khó được ngày hầu hạ; Tuyết rơi trước cửa, chẳng gặp lúc cận kề. Ôi bi thương thay!

Chóng tan sương giá; Mãi hận tuyền đài.

Sương mờ giăng khắp mặt hồ, sầu muộn nhìn mây tụ tán; Sương khói phủ đầy bến nước, bàng hoàng níu kéo linh nhi.

Nhớ ngày trước gặp nhau, tay bắt mặt mừng, hân hoan vui vẻ; Ngẫm hôm nay đưa tiễn, bùi ngùi buồn bã, mắt mũi đầm đìa.

Ôi bi ai thay!

Hạnh đàn rồng đi mất; Hoa biểu hạc quay về.

Lòng muốn tìm chừ khó thể; Dấu muốn thăm chừ khôn truy.

Ngóng về Đông ấp quê xưa, nỗi niềm không nơi gửi gắm; Dòi mắt Khương đình nhà mới, nghẹn ngào sầu lệ lưng mi.

Nhớ ơn sâu giáo dưỡng chừ, mảy may chưa báo; Nghĩ đức lớn tác thành chừ, canh cánh niềm tây.

Lễ sơ vật mọn, ngụ tấc lòng trong ai cảm; Thiên kinh địa nghĩa, tỏ ân đức với muôn đời. Ôi đau xót thay!


BÀI 5. 哭舉人贈知府潘文達鄉紳贈率隊黎高勇 (4; 66a)

哀哉潘文達,桂薑性素辣。壯歳遊庠序,秋試預登拔。四海長無虞,明廷將釋褐。猝然海宼侵,山澤盈豺獺。王土既竊據,民財復強括。荼毒我生灵,虐熖浮三蘖。萬端只爲利,罪惡難簡撮。興師恐病民,釜魚猶鱍鱍。惟有敵愾心,百姓皆蹙頞。况乎有學文,囊錐先頴脱。挺身募勇士,弩力思式遏。頓忘七尺軀,直將虎鬚捋。怪彼狼莠徒,勁草忍振撥。鷹鸇入樊籠,恓聴鴟梟聒。忽髪盡冲冠,瞋目如電抹。独立强虜中,正色厲声喝。尔輩是狗類,所至徒恐喝。尔行総無道,事事皆乖割。我生未殺賊,不願圖苟活。但願死爲厲,助兵来奮撻。寄語昆弟徒,愼事勿疎濶。同輩幸獲濟,莫使如蔓葛。洩忿與伸寃,死兮休宛怛。悖逆無不爲,鐵鈎遽穿割。市人淚盡垂,夷賊魄皆奪。

哀哉黎高勇,賦質最厚重。德齒爲鄉長,生涯務田隴。子弟許捐貲,一級登間冗。本爲濟貧心,何曾患財粟。適茲海氛騰,募兵欲防壅。不料虎豹孤,反被豺狼擁。昂然對賊羣,神色無惶悚。不肯累同人,自當氣何聳。揺頭復閉口,迷藥難汙湩。豈識西主法,吾主則吾奉。顧謂鄉鄰人,勿惑彼慫恿。視我生如何,死亦不闒茸。當念水土恩,讐復志克鞏。夷髏安能久,將見塟無塚。毒手顯芳名,毅魄隨星拱。

哀哉兩男兒,忠義如相期。豈不惜身命,身命關秉彜。豈不愛妻子,妻子皆己私。成仁與取義,矯怯奚能爲。必也烈丈夫,履險方如夷。碧血縱已化,丹心終不移。山河爲生色,木石亦含悲。彼張睢陽齒,視此誠難岐。雖由尔高行,培養原有資。歷朝德澤深,自有興感思。况復政敎肅,士庶敦操持。中興及平偽,已聞声譽馳。南圻忠義声,不特于今茲。因辰益可見,始終洵不虧。覽奏寔堪壯,壯之還哭之。念彼在畎畝,伉慨猶赴危。倘若受寵祿,謀國當孜孜。與賊不兩立,我師寜乆疲。


恨予乏水鑑,草野賢罔知。又恨旬宣臣,明揚毋乃遲。

贈蔭爰特加,卹典增厚施。且命太史記,更令皆立祠。褒酬諒已極,悼惜猶未衰。令德恐不顯,懇欵視摛辭。粗長莫厭複,只患猶闕遺。豈僅厲風俗,且爲萬世規。哀哉兩男兒,一死千年垂。

Khốc Cử nhân tặng Tri phủ Phan Văn Đạt, Hương thân tặng Suất đội Lê Cao Dòng

Ai tai Phan Văn Đạt, khương quế(1) tính tố lạt. Tráng tuế du tường tự(2), thu thí dự đăng bạt.

Tứ hải trường vô ngu, minh đình tương thích hạt. Thốt nhiên hải khấu xâm, sơn trạch doanh sài thát. Vương thổ ký thiết cứ, dân tài phục cưỡng quát.

Đồ độc ngã sinh linh, ngược diệm phù tam nghiệt(3).

Vạn đoan chỉ vị lợi, tội ác nan giản toát. Hưng sư khủng bệnh dân, phũ ngư do bát bát.

Duy hữu địch khái tâm(4), bách tính giai túc át.

Huống hồ hữu học văn, nang chùy tiên dĩnh thoát. Đĩnh thân mộ dũng sĩ, nỗ lực tư thức át.

Đốn vong thất xích khu, trực tương hổ tu loát. Quái bỉ lang dửu đồ, kính thảo(5) nhẫn chấn bát. Ưng chiên nhập phiền lung, tê thính si kiêu quát(6). Hốt phát tận xung quan, sân mục như điện mạt.

Độc lập cường lỗ trung, chính sắc lệ thanh hát. Nhĩ bối thị cẩu loại, sở chí đồ khủng hát.

Nhĩ hành tổng vô đạo, sự sự giai quai cát. Ngã sinh vị sát tặc, bất nguyện đồ cẩu hoạt. Đãn nguyện tử vi lệ, trợ binh lai phấn thát. Ký ngữ côn đệ đồ, thận sự vật sơ khoát.


1 Quế khương: Hai loài thực vật có vị cay, dùng chỉ người có khí chất kiên cường không thay đổi.

2 Tường tự: Chỉ chung trường học ở làng.

3 Tam nghiệt: Ba bè đảng gian ác. Thi - “Thương tụng” - “Trường phát”: “Bao hữu tam nghiệt, mạc toại mạc đạt” (Vua Kiệt và 3 bè đảng như 1 gốc có 3 mầm, đều không đạt thành việc ác nữa.)

4 Địch khái: Lòng căm giận muốn chống lại kẻ thù.

5 Kính thảo: Thân cỏ cứng chắc, không bật gốc trước cơn gió mạnh, chỉ người kiên cường chống giặc. Cả câu ý nói bọn giặc thẳng tay trừ khử những người kiên cường chống lại chúng.

6 Ưng, chiên: Hai loài chim rất mạnh và dữ; Si, kiêu: hai loài cú chuyên rình săn mồi ban đêm. Ý nói nghĩa sĩ của ta (ưng chiên) phải tạm lánh trước sự đàn áp dã man của quân cướp nước (si kiêu) nhưng trong lòng lúc nào cũng căm hận, quyết tâm có một ngày đánh tan bọn chúng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/07/2022