Bài 12. 榜忠侯祭師宣光留守文 (5; 3a)
嗚呼!人居乎蟠際,譬猶夜旦之相推;義合于彝倫,孰若師生之切至。痛惟尊公:
心地溫和,性天雄毅。詩書韜略,蘊武文兼舉之才;俎豆干戈,負左右咸宜之器。蒼垣粵樹高標,扈帳早從戎事。董治奚分眾寡,部行惟一於儀容;操持相濟寬嚴,內外相同於愛畏。雲龍早契殊知,旄鉞馴膺重寄。宣光開大幕,壯千里之長城;興化奏膚公,掃昔年之氛氣。雖乘風破浪,略履初心;而投筆棄繻,未償夙志。但謂雙藩刀尺,壽耀常輝;無端一夕風霜,長星忽墜。時也?命也?天寔為之;天耶?人耶?云何吁矣。嗟世事兮浮雲,嘆人生兮流水。寒侵鈴閣彼露何稀,風拂榆關無碑自淚。某:足躡軒墀,情由橋梓。想容貌以增輝,懷木山而出涕。屬此靈輀夙駕,空懷寸草於三春;爰玆菲禮具陳,眾表常經於萬古。嗚呼!痛哉!
Bảng Trung hầu tế sư Tuyên Quang Lưu thủ văn
Ô hô!
Nhân cư hồ bàn tế(1), thí do dạ đán chi tương thôi; Nghĩa hợp vu di luân(2), thục nhược sư sinh chi thiết chí.
Thống duy tôn công:
Tâm địa ôn hoà, tính thiên hùng nghị.
Thi thư thao lược, uẩn vũ văn kiêm cử chi tài; Trở đậu can qua, phụ tả hữu hàm nghi chi
Có thể bạn quan tâm!
- Thi Thư : Thi Kinh Và Thư Kinh ; Thi Thư Lục Tịch: Chỉ Chung Lục Kinh (Hay Ngũ Kinh) Của Trung Quốc.
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 36
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 37
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 39
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 40
- Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 41
Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.
khí.
Thương viên việt thụ cao tiêu, hỗ trướng tảo tùng nhung sự.
Đổng trị hề phân chúng quả, bộ hành duy nhất ư nghi dung; Thao trì tương tế khoan
nghiêm, nội ngoại tương đồng ái uý.
Vân long(3) tảo khế thù tri, mao việt tuần ưng trọng ký.
Tuyên Quang khai đại mạc, tráng thiên lý chi trường thành; Hưng Hoá tấu phu công, tảo tích niên chi phân khí.
Tuy thừa phong phá lãng(4), lược lý sơ tâm; Nhi đầu bút khí nhu(5), vị thường túc chí.
1 Bàn tế: chương “Khắc ý” sách Trang Tử có câu: “Tinh thần tứ đạt tịnh lưu, vô sở bất cực, thượng tế ư thiên, hạ bàn ư địa.” (Tinh thần khoáng đạt lưu chuyển bốn phương, không chỗ nào không đến, trên tiếp với trời, dưới chạm tới đất.” Ý nói tinh thần không bị câu thúc, đạt địa vị thánh nhân. Ở đây chỉ trong khoảng trời đất.
2 Di luân: chương Hồng phạm sách Thượng thư có câu: “Ngã bất tri kỳ di luân du tự.” (Ta không biết đạo hằng sắp đặt ra sao.) Di luân là luân lý thường hằng.
3 Vân long: cung nhà Hán trang trí hình rồng nên đặt tên là Vân Long. Ở đây chỉ cung vua.
4 Thừa phong phá lãng: cưỡi gió lướt sóng. Tông Ý nước Tống thời Nam triều lúc còn trẻ, chú là Bính hỏi về chí
hướng, Ý đáp: “Nguyện thừa trường phong phá vạn lý lãng.” (Muốn cưỡi gió tung trời, lướt sóng muôn dặm.) Chỉ ý chí to lớn.
5 Đầu bút: bỏ bút nghiên. “Ban Siêu truyện” trong Hậu Hán thư chép: “Siêu nhà nghèo, thường viết sách thuê cho các quan. Sống cảnh nghèo khổ vất vả, có lần quẳng bút nửa chừng than rằng: „Đại trượng phu chẳng có chí gì khác, phải giống như Phó Giới Tử, Trương Khiên lập công còi ngoài để lấy phong hầu, sao có thể mãi vùi đầu giữa đống bút nghiên?‟ Sau Ban Siêu lập công ở Tây Vực, quy phục được hơn năm mươi nước; Khí nhu: ném thẻ phù. “Chung
Quân truyện” trong Hậu Hán thư chép: Quân đương giữ chức Bác sĩ, theo Tế Nam đi bộ vào thành, quan giữ thành đưa Quân một thẻ phù, Quân hỏi để làm gì, quan giữ thành nói: „Đến khi trở về dùng làm vật sóng hợp.‟ Quân nói:
„Đại trượng phu tây du, sẽ không quay trở về.‟ Nói rồi ném thể phù. Sau Quân giữ chức Yết giả, đi sứ đến các quận quốc, mang ấn tín đi ra cửa thành phía đông, quan giữ thành biết mặt, nói: „Vị sứ giả này là người ném bỏ thẻ phù trước kia.‟”
Đản vị song phiên đao xích(1), thọ diệu thường huy; Vô đoan nhất tịch phong sương, trường tinh(2) hốt truỵ.
Thời dã? Mệnh dã? Thiên thực vi chi; Thiên da? Nhân da? Vân hà hu hĩ. Ta thế sự hề phù vân, thán nhân sinh hề lưu thuỷ.
Hàn xâm linh các(3) bỉ lộ hà hi, phong phất du quan vô bi tự lệ.
Mỗ túc niếp hiên trì, tình do kiều tử(4).
Tưởng dung mạo dĩ tăng huy, hoài mộc sơn(5) nhi xuất thế.
Thuộc thử linh nhi túc giá, không hoài thốn thảo ư tam xuân(6); Viên tư phỉ lễ cụ trần, thứ biểu thường kinh ư vạn cổ.
Ô hô! Thống tai!
Dịch nghĩa
Bài văn Bảng Trung hầu tế thầy là quan Lưu thủ ở Tuyên Quang
Ôi thôi!
Người sống trong trời đất, cũng giống như sáng tối luân phiên; Nghĩa hợp đạo luân thường, lấy chi sánh thầy trò kính ái.
Thương thay tôn công:
Tâm địa ôn hòa, tính tình cương nghị.
Thông thi thư, rành thao lược, thiên tư kiêm văn vò song toàn; Lo tế tự, dẹp can qua, tài năng cả trăm quan dốc chí.
Uy danh vang dội khắp phủ nha; Quân sự sớm rèn nơi binh lữ.
Đổng trị thao trường, chẳng phân nhiều ít, tới lui đều giữ một nghi dung; Trau dồi đức hạnh, luôn xử khoan nghiêm, xa gần thảy trọn niềm ái úy.
Rồng mây sớm gặp mối tâm giao; Mao việt đã quen điều tin cậy.
Tuyên Quang khai trận lớn, rền xa muôn dặm trường thành; Hưng Hóa báo công to, quét sạch ngàn năm uế khí.
Tuy cưỡi mây lướt sóng, hùng tâm từ thuở thiếu niên; Nhưng ném bút bỏ nghiên, nguyện xưa vẫn đầy tráng chí.
Vẫn ước hai phen nẩy mực, sao thọ thường soi; Ngờ đâu một tối phong sương, Trường tinh vội nghỉ.
Do thời ư? Do mệnh ư? Trời thật an bài; Do trời ư? Do người ư? Biết làm sao vậy. Than thế sự chừ, mảng mây trôi; Ngán nhân sinh chừ, con nước chảy.
1 Đao xích: dao thước, chỉ việc đo lượng tài năng của người khác để chọn dùng hoặc không.
2 Trường tinh: còn gọi Tuệ tinh (sao có đuôi dài như cái chổi), quét sạch cái cũ hiển bày cái mới, thường dùng chỉ về việc quân đội hoặc người có tài quân sự.
3 Linh các: nơi làm việc của tướng soái hoặc trưởng quan của châu, huyện.
4 Kiều tử: cây kiều cao to, cây tử thấp bé. Chỉ cha con. Thương Thư đại truyện có câu: “Kiều là đạo của cha, Tử là đạo làm con.”
5 Mộc sơn: Rường cột và núi Thái Sơn. Xem chú thích (4) bài Tế tôn sư Tả thị lang văn.
6 Thốn thảo tam xuân: Tấc cỏ ba xuân. Chỉ nỗi lòng người con (tấc cỏ) lo báo đền công ơn cha mẹ (ba xuân).
Gác loan chớm lạnh, sương móc lại chóng tan; Gió phất cửa du, vô cơn mà rưng lệ. Ta:
Chân bước trên đài cao; Tình sâu như phụ tử.
Tưởng dung mạo thêm sáng ngời; Nhớ núi cây càng tiếc nuối.
Từ đây xe tang mất bóng, luống ôm lòng tấc cỏ ba xuân; Đến nay lễ mọn tạm bày, mong nêu mối cương thường vạn thuở.
Ôi đau xót thay!
Bài 13. 德大尊大祭文 (5; 7b)
嗚呼! 僊踪長逝,渺茫遐隔於雲鄉; 花影不留,荏苒乍移於星紀。長嗟瞻望之靡從;劇切哀恫之罔旣。痛惟祖母:懿德端莊;芳姿齊媚。好逑雅叶於河洲;作合早諧於渭涘。鳩嗚迪訓,先君資乾始之猷;熊敻肇祥,先考荷坤生之祉。豊芑深遺厥之燕謀;震鬯介受兹之福庇。肅穆宮中壼範,振詵慶…於螽斯;雍容天下母儀,仁厚化成於麟趾。叙倫睦族,惠逮親疎;利物濟人,恩覃遐邇。休風近軋於高曹;芳躅遠追於任似。髮膚皆渥澤……四紀之仁聲義聞,浹洽圜輿;三朝之淑範嘉規,焜煌彤史。兹培昌大之丕基;醞釀馨香之至治。金箋寳册,尊榮繫備隆儀;玉宇瓊臺,頣養長凝和氣。瑤觴獻媚添引遐齡;壽耀長輝昭呈瑞彩。每望春濃蕙帳,鶴算添積海之籌;何期霜鎻黃宮,騩馳促乘雲之轡。噫!太液波寒;長秋霜曀。蓼車清蹕迥,雲擁眞遊;梓里白雲深,煙封火燧。金風飄而轉冷,陰沈院鳥無聲;寳婺忽以收輝,暗淡宮花有淚。悵懷觸物以增悲;浩嘆籲天之無計。我祖母之修德行義,八十餘載
,穆不已之徽音;我祖母之貽慶垂休,億萬斯天,無疆之福祉。乃休嘉之芳矩依然;遐香邈之眞踪忽爾。御名:緒纂丕洪,慶承積累。緬想栽培闓泽,功德從太極之先;静思平治宏休
,風化自關雎之始。乘歡未遂於晨昏,榮養遽疎於甘旨。慨昔日仰遵慈命,继筳尚曠於遺文;恨去秋纔畧厥儀,金革偶鬆於邊事。匈茫恰值師期,右饗未稱殷禮。方謂武成還肇祀
,一門共妥於孝思;可怜慈侍忽遐遺,兩重交纒於愁緒。致哀至敬劇切吾腸;盡制盡倫曷酬夙志。今則,榖旦載蠲,菲儀聊備。山之瓢野之蔌,冀通肸蠁於重泉;地之義天之經,庶表綱常於萬禩。嗚呼痛哉!
Đức đại tôn đại tế văn
Ô hô!
Tiên tung trường thệ, miễu mang hà cách ư vân hương; Hoa ảnh bất lưu, nhẫm nhiễm sạ di ư tinh kỷ.
Trường ta chiêm vọng chi mĩ tòng; Kịch thiết ai đồng chi vòng ký. Thống duy tổ mẫu:
Ý đức đoan trang; Phương tư tề mị.
Hảo cầu nhã hiệp ư Hà Châu(1); Tác hợp tảo hài ư Vị Sĩ.
Cưu minh địch huấn, tiên quân tư càn thủy chi du(2); Hùng mộng triệu tường, tiên khảo hạ khôn sinh chi chỉ(3).
Phong khỉ thâm di quyết chi yến mưu(1); Chấn sưởng(2) giới thụ tư chi phúc tí.
1 Câu này lấy ý từ Kinh Thi-“Chu nam”-“Quan thư”: “Quan quan thư cưu, tại Hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.” (Chim thư cưu kêu quan quan trên bãi sông Hoàng Hà, cô gái nết na xinh đẹp thật xứng đôi với chàng trai hiền đức.) Nói lên ước mong và nỗi nhớ da diết của chàng trai đối với cô gái hái rau hạnh bên sông, cũng nói lên cảnh vợ chồng êm ấm, thuận hòa.
2 Cưu minh: Chim cưu là một loài chim không bào giờ nghẹn, nên hay khắc hình nó trên gậy của người già. Cưu minh ở đây chỉ lời dạy của Tổ phụ; Càn (Kiền): một quẻ trong Kinh Dịch, đứng đầu muôn vật, cho nên dùng chỉ trời, dương, vua, cha… Ở đây chỉ Tổ phụ.
3 Hùng mộng: Giấc chiêm bao thấy gấu. Chỉ điềm sinh con trai. Kinh Thi: “Cát mộng duy hà? Duy hùng duy bi, nam
tử chi tường.” (Chiêm bao lành dữ thế nào? Thấy gấu là điềm sinh con trai.) Gấu là loài sống ở núi, thuộc về dương nên là điềm sinh con trai; Khôn: một quẻ trong Kinh Dịch, đối lại với quẻ Càn, nên dùng chỉ đất, âm, mẹ… Ở đây chỉ Tổ mẫu.
Túc mục cung trung khổn phạm, chân sân khánh ư chung tư(3); Ung dung thiên hạ mẫu nghi, nhân hậu hóa thành ư lân chỉ(4).
Tự luân mục tộc, huệ đãi thân sơ; Lợi vật tế nhân, ân đàm hà nhĩ.
Hưu phong cận loát ư Cao Tào(5); Phương trục viễn truy ư Nhậm Tự(6). Phát phu giai ác trạch…(7)
Tứ kỷ chi nhân thanh nghĩa văn, tiếp hợp viên dư; Tam triều chi thục phạm gia quy, hỗn hoàng đồng sử.
Tư bồi xương đại chi phi cơ; Uấn nhưỡng hinh hương chi chí trị.
Kim tiên bảo sách, tôn vinh hệ bị long nghi; Ngọc vũ quỳnh đài, di dưỡng trường ngưng hòa khí.
Dao thương hiến mị thiêm dẫn hà linh; Thọ diệu trường huy chiêu trình thụy thái.
Mỗi vọng xuân nùng huệ trướng, hạc toán thiêm tích hải chi trù(8); Hà kỳ sương tỏa hoàng cung, quý trì xúc thừa vân chi bí.
Y!
Thái Dịch(9) ba hàn; Trường Thu(10) sương ế.
Lục xa thanh tất quýnh, vân ủng chân du; Tử lý bạch vân thâm, yên phong hỏa toại.
Kim phong(11) phiêu nhi chuyển lãnh, âm trầm viện điểu vô thanh; Bảo vụ hốt dĩ thu huy, ám đạm cung hoa hữu lệ.
Trướng hoài xúc vật dĩ tăng bi; Hạo thán dụ thiên chi vô kế.
Ngã tổ mẫu chi tu đức hành nghĩa, bát thập dư tải, mục bất dĩ chi huy âm; Ngã tổ mẫu chi di khánh thùy hưu, ức vạn tư niên, … vô cương chi phúc chỉ.
1 Câu này lấy ý từ Kinh Thi-“Đại nhã”-“Văn vương hữu thanh”: “Phong thủy hữu khỉ, Vũ vương khởi bất sĩ. Di quyết tôn mưu, dĩ yến dực tử.” (Sông Phong có cỏ khỉ, Vũ vương há không có việc để lo lắng hay sao? Truyền kế lâu dài cho cháu, để con được yên ổn hiếu kính.) Ý nói mưu lo cho con cháu thì con cháu sẽ được an nhàn vô sự.
2 Chấn sưởng: Dịch-“Chấn”: “Chấn kinh bách lý, bất táng chủy sưởng.” (Sấm vang trăm dặm, chẳng mất thìa và rượu sưởng.) Sấm thì không ai không sợ, nhưng lòng thành kính như đang tế thần khiến mình có thể yên ổn mà không đánh rơi thìa và rượu sưởng. Lại nói: “Chấn hanh, chấn lai hích hích, khủng trí phúc dã.” (Chấn là quẻ hanh, sấm đến sợ ngơm ngớp, vì sợ mà phúc đến.” Sấm đến mà biết lo sợ thì sẽ tự sửa mình, như thế đem đến phúc lành.
3 Câu này lấy ý từ Kinh Thi-“Chu nam”-“Chung tư”: “Chung tư vũ, sân sân hề, nghi nhĩ tử tôn, chân chân hề.” (Cánh con giọt sành, bay tụ tập lại, thì con cháu của mày, phải đông nhiều.) Bà Hậu phi của Văn vương có đức hạnh, không
đố kỵ mà con cháu được đông nhiều, cho nên những người thiếp lấy bầy giọt sành tụ tập hòa hợp để so sánh với con cháu của bà.
4 Lân chỉ: Tức Lân chi chỉ, tên một thiên trong Kinh Thi, khen dòng dòi của Văn vương đều là những người tài giỏi đức độ.
5 Cao Tào: Chưa rò là ai.
6 Nhậm Tự: Mẹ của Văn vương là Thái Nhậm, mẹ của Vũ vương là Thái Tự là hai người phụ nữ đức hạnh nhà Chu.
7 Câu này nguyên văn chữ Hán viết chưa hết.
8 Tích hải chi trù: Sách Thái bình ngự lãm chép truyện ba ông già gặp nhau hỏi tuổi nhau, một ông nói: “Hải thủy biến tang điền, ngô triếp hạ nhất trù, kim mãn thập trù hĩ.” (Nước biển biến ra ruộng dâu, tôi bỏ một cái thẻ, nay vừa đầy mười thẻ rồi.) Ý nói một trăm tuổi, tuổi thọ.
9 Thái Dịch: Hồ Thái Dịch, một trong tám cảnh đẹp ở Yên Kinh.
10 Trường Thu: Tên cung điện nhà Hán, nơi Hoàng hậu ở.
11 Kim phong: Gió thu. Thời cổ dùng âm dương ngũ hành giải thích diễn biến của các mùa, mùa thu thuộc hành kim nên gọi gió thu là kim phong.
Nãi hưu gia chi phương củ y nhiên; Hà hương mạc chi chân tung hốt nhĩ. Ngự danh:
Tự toản phi hồng; Khánh thừa tích lũy.
Miến tưởng tài bồi khải trạch, công đức tùng Thái cực(1) chi tiên; Tịnh tư bình trị hoành hưu, phong hóa tự Quan thư chi thủy.
Thừa hoan vị toại ư thần hôn(2); Vinh dưỡng(3) cự sơ ư cam chỉ.
Khái tích nhật ngưỡng tuân từ mệnh, kế diên thượng khoáng ư di văn; Hận khứ thu tài lược quyết nghi, kim cách(4) ngẫu tùng ư biên sự.
Hung mang kháp trị sư kỳ; Hữu hưởng(5) vị xưng ân lễ.
Phương vị vũ thành hoàn triệu tự, nhất môn cộng thòa ư hiếu tư; Khả linh từ thị hốt hà di, lưỡng trọng giao triền ư sầu tự.
Chí ai chí kính kịch thiết ngô trường; Tận chế tận luân hạt thù túc chí. Kim tắc:
Cốc đán tái quyên; Phỉ nghi liêu bị.
Sơn chi biều dã chi tốc, ký thông hật hưởng ư trùng tuyền; Địa chi nghĩa thiên chi kinh, thứ biểu cương thường ư vạn cổ.
Ô hô thống tai!
Dịch nghĩa
Văn tế bậc đại tôn đại đức (tế tổ mẫu)
Ôi!
Gót tiên đi mãi, mịt mờ xa cách quê xưa; Tan rã bóng hoa, vội vàng đến cùng tinh tú. Than dài mong ngóng biết tìm đâu; Cùng tột u sầu khôn ngăn nỗi.
Nghĩ thương Tổ mẫu:
Nết hạnh đoan trang; Phong tư thùy mị.
Duyên hảo cầu nhã hiệp Hà Châu; Tình tác hợp sớm hòa Vị Sĩ.
Tiếng cưu dạy dỗ, tiên quân nhuần ơn giáo dưỡng từ cha; Báo mộng giấc hùng, tiên khảo đội nghĩa sinh thành của mẹ.
1 Thái cực: Nguyên phạm cao nhất của sự vật. Thái cực bao trùm tất cả những lý của vạn vật, và quy kết tất cả vào nó. Thái cực là rất, hết sức, ngoài nó thì không có gì hình thành và tồn tại được.
2 Thần hôn: Sớm tối. Lễ ký: “Phàm vi nhân tử chi lễ, đông ôn nhi hạ sảnh, hôn định nhi thần tỉnh.” (Phàm theo lễ của kẻ làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên tĩnh nằm, buổi sớm hỏi han cha mẹ xem ngủ dậy khỏe mạnh không.) Chỉ việc sớm tối chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
3 Vinh dưỡng: Tấn thư-“Triệu Chí truyện”: “[Triệu] Chí mười ba tuổi, đang học với thầy, nghe tiếng cha cày ruộng
quát trâu, bỏ sách mà khóc, nói rằng: „Ta còn nhỏ chưa thể vinh dưỡng (vinh: thành danh làm rỡ ràng cha mẹ, dưỡng: phụng dưỡng cha mẹ), để cha già mãi chịu cực khổ.‟ Thầy rất lấy làm lạ.”
4 Kim cách: Đồ kim khí và đồ da, chỉ chung binh khí đánh giặc.
5 Hữu hưởng: Thi-“Chu tụng”-“Ngã tương”: “Y giả Văn vương, ký hữu hưởng chi.” (Văn vương, vị thần hay ban phúc, đã giáng xuống bên hữu hưởng lễ vật cúng tế rồi.) Hữu: bên phải, tôn kính. Bày tỏ lòng kính trọng khi cúng tế.
Sông Phong cỏ khỉ, mưu sâu truyền hậu thế ấm êm; Rượu sưởng sấm vang, thành kính nhận tổ tiên phước huệ.
Nghiêm nghị ôn hòa nơi cung cấm, vui vầy đông đúc chung tư; Khoan thai gương mẫu với mọi người, nhân hậu kết thành lân chỉ.
Tôn ti đúng bậc, trong ngoài khắp cả yêu thương; Lợi vật tế nhân, gần xa thấm nhuần thân
ái.
Tánh thơm vượt khỏi Cao Tào; Đức sáng sánh bằng Nhậm Tự. Tóc tai da dẻ đều thấm đẫm…
Bốn kỷ lời nhân tiếng nghĩa, hòa hợp xung quanh; Ba triều khuôn phép thanh quy, chói
ngời sách sử.
Vun bồi nghiệp lớn xương minh; Hun đúc gia thanh bình trị.
Giấy vàng sách quý, tôn vinh đủ vẻ dung nghi; Nhà ngọc đài quỳnh, di dưỡng tròn tâm hòa khí.
Chén ngọc kính dâng chúc tuổi miên trường; Sao thọ thường soi khoe màu rực rỡ.
Mỗi khi xuân nồng trướng huệ, trăm năm mong tuổi hạc da mồi; Một đêm sương phủ cung vàng, vó ngựa bỗng đường mây giong ruổi.
Ôi!
Thái Dịch sóng băng; Trường Thu sương nổi.
Đường đưa tiễn xe tang tít tắp, mây tỏa gót tiên; Nơi quê cũ mây trắng mênh mang, đuốc mờ bóng khói.
Gió thu thổi, chuyển mùa lạnh lẽo, thâm u sân vắng tiếng chim; Bảo vụ ngừng, thu thúc ánh quang, ảm đạm cung đầy hoa lệ.
Thảm sầu thấy cảnh thêm bi; Kêu trách trời cao chẳng thể.
Tổ mẫu tôi, hơn tám mươi năm tu đức hành nghĩa, tiếng tốt mãi vang xa; Tổ mẫu tôi, đã ức vạn năm ban phúc làm lành, công ơn như trời bể.
Thanh danh đức độ vẫn luôn ngời; Gót ngọc hình tiên sao cách vội. Ngự danh:
Kế thừa công nghiệp lớn lao; Tiếp hưởng ân ba tích lũy.
Thường nhớ ơn sâu vun đắp, công đức bằng Thái cực nguyên sơ; Lặng suy đức lớn trị bình, phong hóa sánh Quan thư khởi thủy.
Thừa hoan chưa trọn sớm chiều; Vinh dưỡng vội lìa chẳng đoái.
Tiếc ngày kia ngưỡng vâng lệnh dạy, vẫn chưa làm được đúng di văn; Hận thu xưa xao nhãng chăm nom, chinh chiến bôn ba ngoài biên địa.
Mịt mù giặc giã đòi phen; Thờ kính lễ nghi chưa phỉ.
Hẹn can qua xong việc, trở về phụng sự, một nhà thỏa nỗi hiếu tư; Thương Tổ mẫu vội xa, nợ nước tình nhà, hai việc chứa chan sầu lụy.
Chí ai chí kính, đau thắt lòng con; Tận chế tận tang, bao đền nguyện ấy. Đến nay:
Trai giới ngày lành; Lòng thành tế lễ.
Rau rừng quả núi, cúi mong thượng hưởng nơi hoàng tuyền; Địa nghĩa thiên kinh, mong tỏ cương thường trong vạn kỷ.
Ôi thương thay!
Bài 14. 東鄂參從官成墳祭文(門生祭 - 羅溪僉都官撰) (5; 11b)
嗚呼!國存而夫子存,國忘而夫子亡。夫子一身,其與國相爲始終者歟!夫子之文學,之德行,之言語,之政事,天子知之,朝廷知之,一國士民知之。誠非小子之敢贅述。乃天阻其辰,國入于乱,不能以一木支太厦,隻手挽蒼溟。至以廟堂蒼赤之身,退而處山水林圜之地。使康濟經綸之事業,不得顯于辰,聞于後。非但夫子之不幸,亦吾道之不幸也。雖然有二見黜,而後有一十餘載之閒,有一不幸,而後有六十四齡之壽。蓮在泥而不染;松經雪而愈堅。芝籣階下日惹書香;風月廷前辰濡道味。此皆上帝之所最惜,世人之所难得
,而夫子有焉,亦夫子積累誠致之焉。嗚呼!夫子之名在史,心事在青天白日,灵魂在名山大川。塵世是非,命途修短,豈足爲夫子病哉!維鱣堂談經之日,大小随才,各有所就
。方夫子之顯也,錯槃百責,親灸之辰疎;及夫子之晦也,林薮四方,從逰之地隔。一旦奠楹之夢作,曵仗之歌殘。聞訃遠來,半是苹蓬之容。升堂側聽,已非弦誦之聲。数尺紅羅,側夫子之姓字也;一堆黄土,則夫子之文章也。祥雲端日之光儀,不可得而覩之矣;和氣春風之氣象,不可得而知之矣。慨嘆慕之情,曷有旣耶。嗚呼!泰山其頹,小子安仰;哲人其萎,小子安倣。杏坛霜鎻,衣冠遺緒孰爲宗;蘭省苔蔓,桃李餘隂誰作主?永惟道德之光,倍切剛常之感。今有薄奠数盃,碑文一幅。祇告于。
Đông Ngạc Tham tụng quan thành phần tế văn (Môn sinh tế - La Khê Thiêm đô quan soạn)
Ô hô! Quốc tồn nhi Phu tử tồn, quốc vong nhi Phu tử vong. Phu tử nhất thân, kỳ dữ quốc tương vi thủy chung giả dư!
Phu tử chi văn học, chi đức hạnh, chi ngôn ngữ, chi chính sự, thiên tử tri chi, triều đình tri chi, nhất quốc sĩ dân tri chi. Thành phi tiểu tử chi cảm chuế thuật.
Nãi thiên trở kỳ thời, quốc nhập vu loạn, bất năng nhất mộc chi thái hạ, chích thủ vãn thương minh. Chí dĩ miếu đường thương xích chi thân, thoái nhi xử sơn thủy lâm viên chi địa, sử khang tế kinh luân chi sự nghiệp, bất đắc hiển vu thời, văn vu hậu. Phi đãn phu tử chi bất hạnh, diệc ngô đạo chi bất hạnh dã.
Tuy nhiên, hữu nhị kiến truất, nhi hậu hữu nhất thập dư tải chi nhàn, hữu nhất bất hạnh, nhi hậu hữu lục thập tứ linh chi thọ. Liên tại nê nhi bất nhiễm; Tùng kinh tuyết nhi dũ kiên. Chi lan giai hạ nhật nhạ thư hương; Phong nguyệt đình tiền thời nhu đạo vị. Thử giai Thượng đế chi sở tối tích, thế nhân chi sở nan đắc, nhi phu tử hữu yên, diệc phu tử tích lũy thành trí chi yên.
Ô hô! Phu tử chi danh tại sử, tâm sự tại thanh thiên bạch nhật, linh hồn tại danh sơn đại xuyên. Trần thế thị phi, mệnh đồ tu đoản, khởi túc vi Phu tử bệnh tai!