Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 37


Dã ngoại thê lương sóc tuyết, chuyển tư xuy cức chi khải phong(1); Lũng đầu tiêu táp thiên sương, bội cảm tư căn chi xuân lộ.

Tư thù đáp dĩ vô do; Thống ban viện nhi phất trú.

Hoa biểu trì quy đinh hạc, y y không miến từ quang; Thảo diên liêu tiến ngu sinh, cảnh cảnh hạt thăng nhụ mộ.

Hựu thể:

Ngẫu hoa nhật noãn, chính phù vạn thọ chi bôi; Huyên thế hàn sương, sạ động bán tiên(2) chi chẩm.

Hạo thán nhân sinh chi như ảo; Trường ta thiên vận chi nan thường. Thống duy ngã mẫu:

Uyển mị huy tư; Trinh thuần ý đức.

Hiệp kê minh(3) chi tĩnh hảo(4), đạo tướng thành gia; Tưu điểu vũ vu phiêu diêu, công hoàn trừu hộ.

Bình cách tài đăng thượng thọ; Tiêu dao cự mịch chân du.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Tuy nhân sinh thất thập cổ lai hi, cộng vi mẫu uý; Đãn tiên cảnh bát thiên kim kỷ hứa, độc oán Tử Hư(5).

Thương tâm phản bộ chi ô(6); Quí sắc hảo âm chi điểu.

Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 37

Tối thị càn nguyên tiên biệt duệ, li loan(7) chi khuê tự hề kham; Kỳ như tốn sách cánh vi nhan, di yến chi phong mưu độc tự.

Hưng ngôn nhi huyết lệ san san; Xúc tưởng nhi sầu trường lũ lũ. Kim tắc:

Triệu thành(8) ký điện; Diên kỷ tứ trần.

Y uý y hao, trướng nhất phiến u hoài chi mạc tả; Dĩ tần dĩ tảo, hạnh trùng tuyền linh sảng chi cư hâm(9).

Dịch nghĩa

Văn tế mẹ (làm hộ)

Một chòm mây trắng, xa xăm trông cách Hằng Sơn; Nước biếc ba xuân, man mác sầu ngưng Nam Phố.



1 Xuy cức chi khải phong: Thi kinh “Bội phong” - “Khải phong” có câu “Khải phong tự nam, xuy bỉ cức tâm” (Gió nam đưa tới, thổi lòng khóm gai). Gió nam nuôi dưỡng vạn vật, ví mẹ, khóm gai nhỏ bé, ví con; lại Kinh Thi cũng có câu “Khổng cức thả đãi” (rất kíp và nguy), nên người đang có tang tự xưng là cức nhân.

2 Bán tiên: Khai Nguyên Thiên Bảo di sự chép, tiết Hàn thực, Đế sai cung nữ hát múa vui cười, gọi đó là trò Bán tiên, ý nói vui như ở còi tiên.

3 Kê minh: Gà gáy, tên một thiên trong Kinh Thi (Tề phong), Ai Công hoang dâm biếng nhác, Trần hiền phi phải sớm tối nhắc nhở chồng đạo tề gia trị quốc.

4 Tĩnh hảo: yên ắng hòa hợp, ý nói tình cảm vợ chồng dành cho nhau.

5 Tử Hư: Nhân vật do Tư Mã Tương Như đời Hán hư cấu. Ý nói sự việc không có thật.

6 Phản bộ chi ô: Chim con mớm mồi cho mẹ, ý nói con báo đáp công ơn cha mẹ.

7 Li loan: Từ câu “Li loan biệt phụng” trong Tây Kinh tạp ký, ý nói vợ chồng chia biệt.

8 Triệu thành: khu vực chôn người chết, mộ phần.

9 Úy hao, tần tảo: Tên các loại cỏ, rau, dùng chỉ thức ăn đạm bạc mà trọn lòng hiếu kính.


Cảnh chuyển dời khôn đoán ý Hóa cơ; Câu li biệt đâu rò hằn kim cổ. Thương thay mẹ ta:

Kính giới hạnh nghiêm; Kiệm cần đức đủ.

Sinh dưỡng nguyện trọn bề gia thất, đất chở trời che; Yêu thương mong đều cả cháu con, đức nhuần ân hậu.

Trăm năm những ước tuổi hạc da mồi; Sáu chục nào hay bóng câu ngắn số.

Áo hoa xuân ấm, đậm nồng chén rượu chúc miên trường; Vó ngựa trời xa, vội vã gót tiên tìm viễn xứ.

Than vãng sự giấc nam kha; Hận phù sinh duyên tán tụ.

Trong chạn bếp bát môi dư trạch, nhớ khi còn tha thiết trẻ thơ; Nơi cao đường gương sáng đang soi, đau chữ mất xong xuôi huyệt mộ.

Sao dời vật đổi, luôn cảm mối u hoài; Tháng lụn ngày qua, vẫn nặng lòng tang cố.

Tuyết đầu đông ngoài đồng băng giá, ngóng gió lành thổi mát bụi gai xanh; Sương sớm trời gò mả thê lương, trông mưa ngọt tưới nhuần thân cây cỏ.

Muốn đáp đền chẳng biết từ đâu; Khôn níu kéo dường thêm tủi hổ.

Hoa biểu chầy đoanh cánh hạc, mỏi mòn khao khát ánh từ quang; Tế ngu tiệc mọn sẵn bày, canh cánh không nguôi tình quyến mộ.

Lại thể rằng:

Sen vàng nắng đẹp, đúng kỳ chúc thọ vô cương; Sương lạnh thềm huyên, chợt giấc thần tiên tỉnh ngủ.

Cơn huyễn mộng, ngao ngán còi nhân sinh; Lẽ vô thường, chán chê lòng con Tạo. Thương ôi mẹ ta: Thuần hậu nết na; Đoan trang dáng bộ.

Hiệp tiếng kê minh hòa ái, đạo phu tòng trợ giúp thành gia; Cất đôi điểu vũ phiêu diêu, công tần tảo vuông tròn mọi sự.

Mới đây thượng thọ vừa đăng; Ngay đó chân tiên nỡ bỏ.

Cũng mừng thân mẫu, nhân sinh thất thập cổ lai hi; Riêng oán Tử Hư, tiên cảnh tám ngàn nay mấy có.

Xót lòng chẳng kịp mớm nhai; Thẹn mặt chưa từng thăm thú.

Trước cha đã dứt tình đi biệt, sầu li loan ngang trái đành cam; Sau mẹ đà nén nỗi buồn đau, câu yến dực một mình năng nổ.

Mở lời mà huyết lệ chan chan; Nhớ dáng mà đoạn trường ủ rũ. Nay thì:

Phần mộ đã an; Khói hương đầy đủ.

Cỏ hao cỏ úy, một niềm u uất khó cạn tình; Rau tảo rau tần, chín nẻo hoàng tuyền mong hưởng thọ.

Thương thay!


Bài 9. 門生輓業師帳文 (4; 75b)

嗚呼!朱嶺天高,三秋悵西風之急;竹湖地遠,一夜驚北斗之寒。哲人其萎,小子安仰。敬惟業師,壬子科舉人,蘇溪阮先生:樂善循理;抱璞含眞。強識博聞,聰敏純乎天賦;陶經鑄史,矩鑠得乎大方。初發軔于庠圍;繼蜚英于鄉榜。結廬湖上,林和靜之卜居;翠草庭邊,周濂溪之樂趣。一樽酒而吟豪適性;半床書而古道照顏。楊司城教率之嚴,斤斤有法;胡直講道德之富;詵詵何多。一門方樂其化成;九陛特隆夫徵命。先生自此升矣,長途之驥足初舒;朝廷將大用之,小邑之牛刀載試。咸州攝政,人係去思;綏轄分符,民歌來暮。信是達人安命,遠不辭劳;異哉造物何心,豊胡以嗇。屈中秋後,真遊遽返於雲鄉;纔六日間,偕老更完於海誓。回程遠遠,千里來兩訃之書;歸殯迢迢,一哭係重傷之感。噫!山瞿水駚,西路漫漫;月淡風輕,書堂寂寂。去秋今夕,馬上傳飲餞之杯;此夕今秋,庭下洒復綏之淚。言念及此,嗚呼痛哉!生等:久坐春風;共霑化雨。悵音容之乍隔;雖欲從而未由。左右服勤,空抱心喪之慨;後前趍拜,聊申草奠之儀。恭抒微忱,伏惟明鑒。

Môn sinh vãn nghiệp sư trướng văn

Ô hô!

Chu lĩnh thiên cao, tam thu trướng tây phong chi cấp; Trúc hồ địa viễn, nhất dạ kinh Bắc đẩu chi hàn.

Triết nhân kỳ nuy, tiểu tử an ngưỡng.

Kính duy nghiệp sư Nhâm Tý khoa Cử nhân, Tô Khê Nguyễn tiên sinh: Lạc thiện tuần lý; Bão phác hàm chân.

Cường thức bác văn, thông mẫn thuần hồ thiên phú; Đào kinh chú sử, củ thước đắc hồ đại phương.

Sơ phát nhận vu tường vi; Kế phỉ anh vu hương bảng.

Kết lư hồ thượng, Lâm Hoà Tĩnh(1) chi bốc cư; Thuý thảo đình biên, Chu Liêm Khê(2) chi

lạc thú.


Nhất tôn tửu nhi ngâm hào thích tính; Bán sàng thư nhi cổ đạo chiếu nhan.

Dương Tư thành(3) giáo suất chi nghiêm, cân cân hữu pháp; Hồ Trực giảng(4) đạo đức chi

phú, sấn sấn hà đa.

Nhất môn phương lạc kỳ hoá thành; Cửu bệ(5) đặc long phù trưng mệnh.

Tiên sinh tự thử thăng hĩ, trường đồ chi ký túc(6) sơ thư; Triều đình tương đại dụng chi, tiểu ấp chi ngưu đao(7) tái thí.



1 Lâm Hoà Tĩnh: Tức Lâm Bô người thời Tống, sống cuộc đời thanh đạm cao nhã, còn để lại bộ Hòa Tĩnh tập hơn 300 thiên.

2 Chu Liêm Khê: Tức Chu Đôn Di người thời Tống, người mở đầu Liêm Khê học phái với hai bộ Thái cực đồ thuyết

Thông thư.

3 Tư thành: Chức quan ở Quốc tử giám.

4 Trực giảng: Chức quan ở Quốc tử giám, trợ giảng cho Bác sĩ.

5 Cửu bệ: Chín tầng trời. Chỉ vua.

6 Ký túc: Vó ngựa ký. Ngựa ký ngày đi được ngàn dặm.

7 Ngưu đao: Chỉ người có tài năng. Luận ngữ-“Dương Hóa”: “Cát kê yên dụng ngưu đao?” (Giết gà cần gì dùng đến dao mổ trâu).


Hàm châu nhiếp chính, nhân hệ khứ tư(1); Tuy hạt phân phù(2), dân ca lai mộ. Tín thị đạt nhân an mệnh, viễn bất từ lao; Dị tai tạo vật hà tâm, phong hồ dĩ sắc.

Khuất trung thu hậu, chân du cự phản ư vân hương; Tài lục nhật gian, giai lão cánh hoàn ư hải thệ.

Hồi trình viễn viễn, thiên lý lai lưỡng phó chi thư; Quy tấn điều điều, nhất khốc hệ trùng thương chi cảm.

Y!

Sơn cù thuỷ ưởng, tây lộ man man; Nguyệt đạm phong khinh, thư đường tịch tịch.

Khứ thu kim tịch, mã thượng truyền ẩm tiễn chi bôi; Thử tịch kim thu, đình hạ sái phục tuy chi lệ.

Ngôn niệm cập thử, ô hô thống tai! Sinh đẳng:

Cửu toạ xuân phong; Cộng triêm hoá vũ.

Trướng âm dung chi sạ cách; Tuy dục tòng nhi vị do.

Tả hữu phục cần, không bão tâm tang chi khái; Hậu tiền xu bái, liêu thân thảo điện chi

nghi.


Cung trữ vi thầm, phục duy minh giám.

Dịch nghĩa

Môn sinh vãn nghiệp sư trướng văn

Ôi thôi!

Châu Lĩnh trời cao, cuối thu hận gió tây thổi gấp; Trúc Hồ đất lạ, suốt đêm buồn Bắc đẩu giá băng.

Bậc hiền triết mãi đi rồi, tiểu tử biết ngưỡng vọng vào đâu?

Kính nhớ Nghiệp sư, là Nguyễn tiên sinh ở Tô Khê, đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý. Thuận giữ kỷ cương, vui làm việc tốt; Thiên tư chất phác, lòng dạ chân thành.

Học rộng nhớ hay, thông mẫn có tài thiên phú; Sôi kinh nấu sử, khuôn phép từ bậc hiền

năng.


Khê.


Khi mới đến trường hương, đã rò tài hương bảng.

Lều dựng bên hồ, chỗ bốc cư Lâm Hòa Tĩnh; Hoa vờn trước ngò, niềm lạc thú Chu Liêm


Rượu một chung hào tâm sảng khoái; Sách đầy giường đạo sáng thường soi.

Dương Tư thành giáo huấn uy nghiêm, chăm chăm thủ pháp; Hồ Trực giảng giữ nghiêm

chánh đạo, thiên hạ bao người?

Đàn giáo tử vừa vui thành tựu; Chốn cửu giai đã vội đòi về.


1 Khứ tư: Hán thư-“Tuần lại truyện tự”: “Sở cư dân phú, sở khứ dân tư.” (Lúc còn cai trị giúp dân sung túc, khi đã ra đi dân tiếc dân thương), chỉ quan lại có đức độ.

2 Phân phù: Chia một nửa tín phù cho bậc công thần, ý nói người có đức tài được triều đình tín nhiệm.



từ đây.


sao nỡ. hải thệ.

Vua sắp dụng tài, quê nhà sẽ ngưu đao thi triển; Đường xa tạm nghỉ, vó ký dừng giã biệt


Trổ tài nhiếp chính, đi dân mến ở dân tin; Đức trị phân phù, đến dân vui về dân quý.

Thật đúng đạt nhân an mệnh, khó nhọc không màng; Ghét thay Tạo hóa cơ cầu, sẻn dè

Trung thu vừa mãn, gót tiên vội đến với làng mây; Sáu ngày mới qua, giai lão đã tròn câu Đường về thẳm nẻo, hai tờ cáo phó dặm ngàn khơi; Linh cửu xa nơi, một mối sầu thương

đâu xiết kể.

Ôi!

Sông gầm núi thảm, dài dặc đường tây; Gió lặng trăng mờ, vắng tênh thư xá.

Đêm nay thu trước, chén rượu mời lưng ngựa tiễn đưa; Thu nay đêm này, giọt lệ ứa âm dương cách trở.

Nói càng thêm thương; Nhớ càng thêm tủi. Bọn môn sinh từ lâu:

Tắm ngọn gió xuân; Dày ơn giáo dưỡng. Đau đớn thay:

Tiếng nói dáng đi không nghe thấy; Mắt nhìn tai lắng chẳng biết đâu.

Xúm xít lo toan, chẳng thể lo tròn câu tử táng; Bon chon lễ bái, chỉ là lễ mọn trước vong

linh.

Ngỏ chút lòng thành; Hương hồn minh giám.


Bài 10. 欽差諭祭練忠公文 (5; 1a)

:都俞堂陛,股肱正藉良臣;煕洽朝廷,柱石允資舊德。胡蒼蒼之不惠,遽苒苒以至兹。惟公:北斗文宗,山西人傑。密勿早諧於潛詆,誠意正心之學,裨益滋多;經綸茂展於丕時

,迪文抗武之秋,周旋各適。邊閫外運籌决勝;禁闥中補過拾遺。迪官常守正不阿,孜孜奉國;安臣止盡心所事,穆穆迓衡。粢寧式至今休,謨弼寔多乃績。方朕心之重寄,遽箕尾之遄歸。永惟三十餘載之忠勤,軫舊翻成觸感;顧念累千萬言之剴切,思賢深為慘懷。是用差官致祭,公其享之!

Khâm sai dụ tế Luyện Trung công văn

Viết:

Đô du(1) đường bệ, cổ quăng(2) chính tạ lương thần; Hi hiệp triều đình, trụ thạch duẫn tư cựu đức.

Hồ thương thương chi bất huệ, cự nhiễm nhiễm dĩ chí tư. Duy công:

Bắc đẩu văn tông, Sơn Tây nhân kiệt.

Mật vật tảo hài ư Tiềm Để(3), thành ý chính tâm chi học, tì ích tư đa; Kinh luân mậu triển ư phi thời, địch văn kháng vũ chi thu, chu toàn các thích.

Biên khổn ngoại vận trù quyết thắng; Cấm thát trung bổ quá thập di.

Địch quan thường thủ chính bất a, tư tư phụng quốc; An thần chỉ tận tâm sở sự, mục mục nhạ hành.

Tư ninh thức chí kim hưu; Mô bật thực đa nãi tích. Phương trẫm tâm chi trọng ký, cự Ky Vĩ chi thuyên quy.

Vĩnh duy tam thập dư tải chi trung cần, chẩn cựu phiên thành xúc cảm; Cố niệm luỹ thiên vạn ngôn chi cai thiết, tư hiền thâm vị thảm hoài.

Thị dụng sai quan trí tế, công kỳ hưởng chi!

Dịch nghĩa

Bài văn quan Khâm sai theo chỉ dụ của vua tế Luyện Trung công

Vua tôi đồng thuận, người tay chân đáng gọi tôi trung; Hoà hợp triều đình, kẻ rường cột thực nhờ đức cũ.

Sao trời xanh không đoái tưởng, lại vội vã gây ra cảnh này. Nhớ ông:

Nguồn văn Bắc đẩu, nhân tài Sơn Tây.


1 Đô du: Xưng tán và đồng ý. Thư-“Ích Tắc” có câu: 禹曰:都,帝,慎乃即位.帝曰:俞.“Vũ viết: Đô, đế, thận nãi tức vị. Đế viết: Du.” = Vũ nói: “Dạ! Nhà vua hãy cẩn thận việc ở ngôi.” Vua nói: “Hay!” Về sau dùng từ “đô du” diễn tả sự hoà hợp giữa vua tôi.

2 Cổ quăng: Đùi vế và cánh tay. Chỉ bề tôi đắc lực.

3 Tiềm để: Nơi hoàng đế ở trước khi tức vị.



nhiều;

Nhờ chăm cần nên sớm tâm đầu nơi Tiềm Để, giữ thành ý, theo chính trực, giúp rập càng


Tài kinh luân thi triển tốt ở đời, gặp buổi địch văn kháng vũ, mọi việc đều vuông tròn

thích hợp.

Ngoài biên cương bàn mưu quyết thắng với quân thù;

Trong hoàng cung sửa điều lỗi của vua, bổ sung những điều thiếu sót.

Làm việc quan luôn giữ lòng ngay thẳng, chẳng a dua, chăm chăm phụng sự quốc gia; Bề tôi giúp yên đất nước luôn tận tâm với nhiệm vụ, rất mực công bằng.

Lo chuyện an ninh đến nay ơn còn lắm; Tính bề phò tá công trạng thật nhiều. Đang lúc lòng trẫm định phó thác đại sự, thì sao Ky sao Vĩ đã vội quay về.

Mãi nghĩ đến hơn ba mươi năm trung cần, lòng nhớ người xưa trở thành cảm xúc; Ngẫm về ngàn vạn lời đích đáng, lòng nhớ người hiền làm tan nát tâm can.

Nên bảo quan sai cúng tế, ông hãy về hưởng!


Bài 11. 昭統二年諭祭北朝太守文 (5; 1b)

惟公:北斗高才,粵西良守。屬敝國偶遭屯造,仰聖朝拯救之仁;繄丈人克迪師貞,贊上憲夷蕪之烈。正擬戎功完濟,何期靈轎忽揺。誼切同仇,感深在事。尚其歆格,少慰芳馨。

Chiêu Thống nhị niên dụ tế Bắc triều Thái thú văn

Duy công:

Bắc đẩu cao tài, Việt Tây lương thủ.

Thuộc tệ quốc ngẫu tao truân tháo, ngưỡng thánh triều chửng cứu chi nhân; Ê trượng nhân khắc địch sư trinh, tán thượng hiến di vu chi liệt.

Chính nghĩ nhung công hoàn tế, hà kỳ linh kiệu hốt dao.

Nghị thiết đồng cừu, cảm thâm tại sự. Thượng kỳ hâm cách, thiểu uý phương hinh.

Dịch nghĩa

Nhớ ông:

Bắc đẩu tài cao, Quảng Tây quan giỏi.

Ngay khi tệ quốc đến bước cheo leo, ngưỡng nhờ thánh triều ra ơn cứu giúp; Đấng trượng phu nắm vững việc quân cơ, khen phép nghiêm tận trừ cỏ dại. Chính lúc quân công hoàn bị, nào ngờ linh kiệu vội xa.

Tình hữu nghị thân thiết, cùng kẻ cừu thù, là những việc gây nên cảm xúc lớn. Một ít hương hoa an ủi, ông hãy về soi tỏ lòng thành.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/07/2022