Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 33




đại nhân



chân thành, cảm động.

B251*

Khuyết danh

Văn tế ông Cai Trí/ cuối XIX

Nôm/ tứ ngôn trường thiên

[79, T17; 1001] Năm 1882, Pháp đánh Hà Nội, Thọ Xương. Tại Thọ Xương, quan lại hoảng sợ bỏ chạy. Ông Cai Trí cùng 1 số lính trụ lại chiến đấu và anh dũng hi sinh. Người dân cảm phục và vô cùng thương tiếc đã làm bài văn tế này. Có người đoán

ông Cai Trí là Đỗ Đăng Lân?

B253*

Khuyết danh

Văn điếu tên chó săn Nguyễn Duy Hàn/ 1913

Nôm/ biểu

[21; 122] Nguyễn Duy Hàn là Tuần phủ Thái Bình, tay sai của giặc Pháp. Ngày 13/4/1913 Phạm Văn Tráng (?-1913) cho nổ bom ở Hà Nội kết liễu cuộc đời của hắn. Bài này làm theo lối biểu, chửi vào

mặt tên Việt gian và vạch rò tội ác của hắn.

B254*

Khuyết danh

Văn tế thuốc phiện

Nôm/

luật phú độc vận

[21; 139] Thuộc văn tế trào phúng

B255*

Khuyết danh

Văn tế vụ xin sưu/ đầu XX

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 131], [123; 725] Trong phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908), người dân Quảng Nam, Quảng Ngãi đồng loạt biểu tình, bắt trói một số Tri phủ, Tri huyện. Triều đình phải cử bọn Khâm sứ, Hiệp biện đại học sĩ, Phụ chính đại thần xoa dịu nhân dân. Bài văn tế nêu rò nỗi thống khổ của dân, sự tàn độc của nhà cầm

quyền, đồng thời nêu cao sự đoàn kết của người dân chống sưu cao thuế nặng.

B256*

Khuyết danh

Văn vợ tế chồng thợ rèn/ Minh Mạng - Thiệu

Trị

Nôm/ luật phú độc vận

[151] Mỗi câu đều dùng từ ngữ liên quan đến nghề rèn. Thuộc văn tế trào phúng.

B257*

Chưa rò

Vân Cốc xã tiên Thạc Vũ công đệ lục lang tế điệu nội cựu triều vương phủ đệ nhất công chúa văn (Văn tế vợ là công chúa đời

Trịnh)/ Tây Sơn

Nôm/ luật phú độc vận

[140; 148] Đây là bài văn tế do con trai thứ 6 của Thạc Vũ công người xã Vân Cốc (Sơn Tây) tế vợ là con gái đầu của chúa Trịnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 33


PHỤ LỤC 3

PHIÊN DỊCH TÁC PHẨM


BÀI 1. 山興宣督憲黎文德遵旨祭陣亡病故將士文 (13; 2b)

某年月日官爵姓名,欽奉恩旨,軫及進征逆雲辰陣亡病故之將士兵勇等,準賜祭一坛,具牲酒庶饈之品,設坛爲位以吿于行陣病亡者之靈曰:

嗚呼!疆場敵愾,因盡節以成忠;覆載垂慈,葢無微而不燭。雖蒙國恩死國事,臣心庸恤其他;然孤人子寡人妻,兵革本非所欲。繄爾等之驕雄;爲國家之容蓄。奮身堅鋭

,以膂力而爪牙;矢念尊親,如手足於頭目。許乆虎皮包戟,譙楼之角吹方閒;何期狼燧傳鋒,戎壘之征轅乍促。修尔戈同澤同袍;出我車于郊于牧。三秋出入屡戰頻攻;萬状艱難重溪疊谷。飛鳶跡跡,空驚壯士之魂;瘏馬行行,疇畫征夫之軸。惟其想逆渠之犯順,孰不衝冠;是以[?](1)予勇以争先,人思八服。旣踰嶺以臨泉;亦緣崖而攀木。連峯似戰桓桓,臨玉帽以奚辭;薰雨如湯恍恍,指雲中而不縮。霜林戰處,曷禁矢石之紛飛;霧磴躋餘,易惹烟嵐之誤觸。呉将之金瘡列背,神醫何所旋丹;蜀泉之水瘴居肓,鬼伯豈須登籙

。故破竹走風之勢,則莫我承;而埋輪鷙馬之雄,返爲尔毒。嗟哉,衽不厭之金;忽乃,委俱焚之玉。想尔之九泉齎志,有不勝於猿呌鵑啼;乃彼之一旦傾巢,亦窮技於驢鳴鼯伏

。是能雪尔恨于窈冥;葢全伏我朝之威福。且此三軍奏凱,正騰闕下之歌;寜敎絕塞含凄

,尚滯天顔之哭。仰高厚之普施;悉往存而涵肓。千里封疆不逺,宸思乍動于磬聞;九重渥澤有加,卹典式周于矢後。今則:以饗以奠欽自天恩;或肆或將治于庖祝。庶精爽之有知;俾宠光之共沐。嗚呼!太山比重,不孤馬革之難懷;天日向光,久慰泉臺之衷曲。尚享!

Sơn Hưng Tuyên Đốc hiến Lê Văn Đức tuân chỉ tế trận vong bệnh cố tướng sĩ văn

Mỗ, niên nguyệt nhật, quan tước tính danh, khâm phụng ân chỉ, chẩn cập tiến chinh nghịch Vân thời trận vong bệnh cố chi tướng sĩ binh dũng đẳng, chuẩn tứ tế nhất đàn, cụ sinh tửu thứ tu chi phẩm, thiết đàn vi vị dĩ cáo vu hành trận bệnh vong giả chi linh viết :

Ô hô!

Cương trường địch khái, nhân tận tiết dĩ thành trung; Phú tái(2) thuỳ từ, cái vô vi nhi bất

chúc.

Tuy mông quốc ân tử quốc sự, thần tâm dong tuất kỳ tha; Nhiên cô nhân tử quả nhân thê,

binh cách bản phi sở dục.

Ế nhĩ đẳng chi kiêu hùng, vi quốc gia chi dung súc.

Phấn thân kiên nhuệ, dĩ lữ lực nhi trảo nha(3); Thỉ niệm tôn thân, như thủ túc ư đầu mục(4).

Hứa cửu hổ bì bao kích, tiều lâu(1) chi giác xúy phương nhàn; Hà kỳ lang toại(2) truyền phong, nhung luỹ chi chinh viên sạ xúc.


1 Chữ mờ, không đọc được, ở phần sau chúng tôi tạm dịch.

2 Phú tái: Che chở. Tuân tử-“Tâm thuật hạ” có câu: “Thị cố Thánh nhân nhược thiên nhiên, vô tư phú dã; nhược địa

nhiên, vô tư tái dã.” (Cho nên, bậc Thánh nhân ví như trời vậy, vô tư che khắp vạn vật; ví như đất vậy, vô tư chở khắp vạn vật.) Về sau thường dùng chỉ ân đức của các bậc đế vương đối với dân chúng.

3 Trảo nha: Vuốt nanh. Loài cần thú có vuốt nanh để tự vệ. Các vò thần cũng được gọi là trảo nha, hộ vệ nhà vua, bảo vệ đất nước.

4 Đầu mục: Đầu, mắt. Dùng chỉ người đứng đầu, thống soái.



trục.

Tu nhĩ qua đồng trạch đồng bào(3); Xuất ngã xa vu giao vu mục.

Tam thu(4) xuất nhập, lũ chiến tần công; Vạn trạng gian nan, trùng khê điệp cốc.

Phi diên tích tích, không kinh tráng sĩ chi hồn; Đồ mã hàng hàng, trù họa chinh phu chi


Duy kỳ tưởng nghịch cừ chi phạm thuận, thục bất xung quan; Thị dĩ [?] dư dũng dĩ tranh

tiên, nhân tư bát phục.

Ký du lĩnh dĩ lâm tuyền; Diệc duyên nhai nhi phàn mộc.

Liên phong tự chiến hoàn hoàn, lâm ngọc mạo(5) dĩ hề từ; Huân vũ như thang hoảng hoảng, chỉ vân trung nhi bất súc.

Sương lâm chiến xứ, hạt câm thỉ thạch chi phân phi; Vụ đặng tễ dư, dị nhạ yên lam chi ngộ xúc.

Ngô tướng chi kim sang liệt bối, thần y hà sở toàn đan; Thục tuyền chi thuỷ chướng cư hoang, quỷ bá khởi tu đăng lục.

Cố phá trúc tẩu phong chi thế, tắc mạc ngã thừa(6); Nhi mai luân(7) chí mã chi hùng, phản vi nhĩ độc.

Ta tai, nhẫm bất yếm chi kim(8); Hốt nãi, uỷ câu phần chi ngọc(9).

Tưởng nhĩ chi cửu tuyền tê chí(10), hữu bất thăng ư viên khiếu quyên đề; Nãi bỉ chi nhất đán khuynh sào, diệc cùng kỹ ư lư minh ngô phục(11).

Thị năng tuyết nhĩ hận vu yểu minh; Cái toàn phục ngã triều chi uy phúc.

Thả thử tam quân tấu khải, chính đằng khuyết hạ chi ca; Ninh giao tuyệt tái hàm thê, thượng trệ thiên nhan chi khốc.

Ngưỡng cao hậu chi phổ thi; Tất vãng tồn nhi hàm dục.


1 Tiều lâu: Cái chòi cao dựng trên cổng thành để theo dòi thế trận của địch.

2 Lang toại: Dùng phân sói phơi khô trộn với chất đốt, khi có biến thì dùng đốt lửa lên để cấp báo.

3 Tu nhĩ qua đồng trạch đồng bào: Câu này lấy ý từ Thi kinh-“Tần phong”-“Vô y”: “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào, vương vu hưng sư, tu ngã qua mâu, dữ tử đồng cừu.” (Há bảo không áo, mặc chung áo bông, vua sắp dấy binh, tu chỉnh giáo mác, đánh kẻ thù chung) và “Khởi viết vô y, dữ tử đồng trạch, vương vu hưng sư, tu ngã mâu kích, dữ tử giai tác.” (Há bảo không áo, mặc chung áo thô, vua sắp dấy binh, tu chỉnh cung tên, cùng xông lên trước). Sau dùng chỉ lòng vui thương lẫn nhau đủ khiến cho người ta cùng nhau xả thân vì nước.

4 Tam thu: Ba mùa thu, tức ba năm, khoảng thời gian dẹp loạn 1833 - 1835.

5 Ngọc mạo: Mũ trang sức bằng ngọc, ở đây chỉ loại mũ đội khi đi đánh trận.

6 Tắc mạc ngã thừa: Lấy từ Thi kinh-“Lỗ tụng”-“Bí cung”: “Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng, tắc mạc ngã cảm thừa, tí nhĩ xương nhi xí, tí nhĩ thọ nhi phú.” (Đánh rợ Nhung rợ Địch, trị nước Kinh nước Thư, thì ai dám chống lại ta, khiến ngài được tốt lành, hưng thịnh, sống lâu và giàu có)

7 Mai luân: Chôn chặt bánh xe, tỏ ý tử thủ không lùi bước.

8 Nhẫm bất yếm chi kim: Lấy ý từ câu “Nhẫm kim cách, tử nhi bất yếm” trong Trung dung, nghĩa là nằm ngủ cũng đeo gươm mặc giáp, vào chỗ chết cũng không nề chi. Ý nói các tướng sĩ vì đại cuộc sẵn sàng chiến đấu không sợ hi sinh.

9 Ủy câu phiền chi ngọc: Lấy ý từ Thượng thư - “Dận chinh”: “Hỏa viêm Côn cương, thạch ngọc câu phiền.” (Lửa

đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy). Ở đây, ngọc chỉ các tướng sĩ, đá chỉ bọn phản loạn, ý nói các tướng sĩ kiên trung chấp nhận tử chiến cùng quân phiến loạn.

10 Tê chí: Chí hướng chưa thực hiện được nhưng đã chết, đem theo xuống cửu tuyền.

11 Lư minh ngô phục: Lừa hí chuột nấp, ý nói đã tìm đủ mọi cách để chống giặc nhưng sức cùng lực kiệt đành chịu hi sinh.


Thiên lý phong cương bất viễn, thần tư sạ động vu khánh văn; Cửu trùng ác trạch hữu gia, tuất điển thức chu vu thỉ hậu.

Kim tắc:

Dĩ hưởng dĩ điện khâm tự thiên ân; Hoặc thích hoặc tương trị vu bào chúc. Thứ tinh sảng chi hữu tri, tỉ sủng quang chi cộng mộc.

Ô hô!

Thái Sơn tỉ trọng, bất cô mã cách(1) chi nan hoài; Thiên nhật hướng quang, cửu uý tuyền đài chi trung khúc(2).

Thượng hưởng!

Dịch nghĩa

Bài văn tế do Đốc hiến Sơn Hưng Tuyên Lê Văn Đức tuân theo lệnh vua viết để tế các tướng sĩ trận vong và bệnh vong

Mỗ, ngày tháng năm, chức tước và họ tên, kính vâng ân chỉ của vua, ban một đàn tế, đầy đủ lễ vật, rượu thịt và thức ngon, tưởng nhớ các tướng sĩ đã anh dũng trận vong và bệnh vong trong cuộc tiến đánh bọn nghịch tặc Nông Văn Vân. Nay lập đàn tế cáo với linh hồn các tướng sĩ rằng:

Than ôi!

Lòng địch khái nơi chiến địa, thà tử tiết để vẹn giữ lòng trung; Ân phú tái đấng hiền minh, dù lớn nhỏ cũng dày ban ân phúc.

Tuy đội ơn nước, chết vì việc nước, kẻ bề tôi đâu hối tiếc điều chi; Nhưng con xa cha, vợ phải xa chồng, cơn binh cách vốn trầm luân địa ngục.

Kia sĩ binh anh dũng kiêu hùng, chính quốc gia tài bồi hun đúc.

Rèn thân rắn sắc, mong thành gân cốt tướng trảo nha; Chặt dạ tôn thân, chẳng khác tay chân quan đầu mục.

Bấy lâu cung kiếm yên da hổ, tiếng tù chòi gác vắng thinh thinh; Bây giờ lang khói ngút trời xanh, trận địa trống đồn đang thôi thúc.

Sửa sang giáo mác, mặc cùng áo đắp cùng chăn; Chỉnh đốn ngựa xe, ruổi mọi đường xông mọi góc.

Ba thu dầu dãi, công phá nhiều phen; Vạn nỗi gian truân, san bằng hiểm hóc.

Quạ diều quần đảo, luống kinh hồn tướng sĩ mơ màng; Xe ngựa liêu xiêu, khéo họa bức chinh phu vũ khúc.

Riêng nghĩ đến tặc đồ phản nghịch, nộ khí xung thiên; Nên phát dương ý chí tranh hùng, tám phương úy phục.

Đã lội suối lại trèo non; Thêm thiên nhai rồi lâm cốc.


1 Mã cách: Da ngựa. Nói đầy đủ là “Mã cách khỏa thi” (Da ngựa bọc thây), xuất xứ từ câu nói của Mã Viện đời Đông Hán: “Nam nhi yếu đương tử ư biên dã, dĩ mã cách khỏa thi hoàn tang nhĩ…” (Làm trai nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn…” (Hậu Hán thư). Chỉ nghĩa vụ làm trai phải xông pha, sẵn sàng bỏ thân nơi chiến địa.

2 Trung khúc: Tình tự, nỗi lòng.


Từng đỉnh núi giống rừng gươm uy vũ, đầu mang mũ trụ chẳng lùi chân; Mỗi giọt mưa như dòng nước trào sôi, tay chỉ trời xanh không bỏ cuộc.

Chiến trường khói tỏa, đâu thoát vòng đá dội tên bay; Vách đá sương giăng, sao kham cảnh rừng thiêng khí trọc.

Ngô tướng kiếm đao xuyên áo giáp, thần y thúc thủ hoàn sinh; Thục tuyền nước độc ngấm tâm tì, quỷ bá nhanh bài chiêu phục.

Cho nên, khí thế tro bay trúc chẻ, loạn thần không thể giương oai, phách lạc hồn kinh; Song le, oai hùng chống giặc chôn xe, tướng sĩ đành cam nuốt hận, xương tan thịt róc.

Thương ôi, mệnh đương sống chết, khi ăn ngủ cũng chẳng rời gươm; Bỗng đâu, lửa đốt núi Côn, chí kiên trinh sẵn sàng nát ngọc.

Nghĩ rằng, các ngươi ngậm hờn nơi chín suối, chỉ tiếc lòng vượn hú quyên than; Thật ra, mỗi người tận lực thuở can qua, đã hết cách lừa kêu chuột rúc.

Như vậy cũng đủ:

Sáng ngời tinh phách hồn thiêng; Khôi phục cơ đồ đại quốc.

Đây là lúc ba quân báo tiệp, khuyết môn nô nức khải hoàn ca; Kia là nơi biên tái thê lương, thánh chúa âm thầm tuôn lệ khóc.

Ngưỡng ân sâu đức cả cao dày; Khắp kẻ mất người còn mãn túc.

Tâm khảm ai hoài trong tiếng khánh, đâu đây ngàn dặm sơn hà; Sự vong trịnh trọng buổi đăng đàn, trên dưới chín từng mưa móc.

Nay thì:

Kính vâng vương mệnh, lễ tế đã an; Nhờ sức trù nhân, hương phần sung túc. Hồn thiêng hầu đã chứng tri; Ân điển cùng nhau hưởng lộc.

Ôi thôi! Thái Sơn vĩ đại, dẫu rằng da ngựa khó bọc thây; Nhật nguyệt thường soi, mãi chiếu dạ đài cơn trung khúc.

Thương thay! Thượng hưởng!


BÀI 2. 祭武將公文(延河榜眼黎貴惇撰) (5; 9a)

嗚呼!樗陰暗淡,滿天風雨何仇;梓邑凄凉,竟夜禽猨若訴。長嗟我父之曷歸;浩嘆蒼天之莫籲。痛惟:地步高華,天資超悟。帳裏勵三冬之學,辛勤馬枕車囊;胸中搜二酉之藏,淹貫陸厨杜庫。八文成韻,蓺圃高超; 千古馳名,詞林獨步。吐芳汗於秋棘,鵬摶北海之風;洒麗藻於詞塲,豹變南山之霧。桂枝早見騰芳,槐蔭預知必做。春圍射策,四海瞻榜上之龍;東閣掄才,群英讓文中之虎。陪政府而魚頭鯁概,子文之喜愠都忘;陟諫垣而鐵面風棱

,長孺之招麾莫顧。窮通盡付於青蒼; 忠愛只舒於悃素。鸞坡两入,演青綸而日贊淵猷;烏府重登,簪白筆而霜嚴憲度。多年中外丕揚,一節後先疎附。六籌戎陣,餘威杨柳之塲

;五試民庸,遺愛甘棠之樹。剛腸標晚歲之長松,特操屹中流之砥柱。三榮完福,人稱陸地之神僊;九老英逰,时踵香山之步武。比皐重設於閒堂,晚景将安於逸趣。遠廣平於闕下,紫宸懷敢諫之英風;起司馬於洛中,蒼生望及辰之霖雨。暮年而可道具經綸,数月預聞政將調緌。每谓壽星長照,百年尚擬於龜齡;何期箕尾遽推,一枕忽迷於蝶羽。噫!雲鎻寒山,月沈遠浦。跼天蹐地罔旣凄怜; 陸海癯山曷滕悲慕。一生之風栽節操,冰雪同情;千秋之事業勲名,縑緗不朽。精英雖已斂於山河,聞望尙昭垂於宇宙。悠悠景仰休風,瞿瞿愈增悲[+]。静惟頂踵,恨涓滴之未酬;遐望音容,慨羹墙之如覩。今則:灵鳴吿迁,行途暫駐。澗毛沼沚,聊將薄奠数盃; 地義天經,庶表昪倫万古。嗚呼痛哉!

Tế Vũ Tướng công văn

(Diên Hà Bảng nhãn Lê Quý Đôn soạn)


tố.

Ô hô!

Xư âm(1) ám đạm, mãn thiên phong vũ hà cừu; Tử ấp thê lương, cánh dạ cầm viên nhược


Trường ta ngã phủ chi hạt quy; Hạo thán thương thiên chi mạc dụ. Thống duy:

Địa bộ cao hoa; Thiên tư siêu ngộ.

Trướng lý lệ tam đông chi học, tân cần Mã chẩm Xa nang(2); Hung trung sưu nhị Dậu(3)

chi tàng, yêm quán Lục trù Đỗ khố(4).

Bát văn(5) thành vận, nghệ phố cao siêu; Thiên cổ trì danh, từ lâm độc bộ.

Thổ phương hãn ư thu cức, bằng đoàn Bắc hải chi phong; Sái lệ tảo ư từ trường, báo biến Nam sơn chi vụ(1).


1 Xư âm: Bóng cây xư. Xư là một loại cây không dùng được vào việc gì, nên dùng để tự nói nhún mình (như nói “kẻ bất tài này”).

2 Mã chẩm: Gối tròn của Ôn Công. Tư Mã Ôn Công tức Tư Mã Quang, tự Quân Thực, người đất Thiểm Châu nhà

Tống. Ông là người ham học, khi nằm đọc sách dùng gối gỗ tròn gọi là “cảnh chẩm” (gối đánh thức) phòng khi ngủ quên gối tròn lăn đi, tỉnh dậy tiếp tục đọc sách; Xa nang: túi đựng đom đóm của Xa Dận. Xa Dận người đất Nam Bình nhà Tấn, tự Vũ Tử, thuở nhỏ chăm học, đêm ngày không biết mệt mỏi. Nhà nghèo thường không có dầu để thắp, mùa hè phải bắt đom đóm cho vào một cái túi lấy ánh sáng đọc sách. Sau làm đến chức Lại bộ Thượng thư.

3 Nhị Dậu: Hai núi Đại Dậu Sơn và Tiểu Dậu Sơn, tương truyền hang đá trong núi có hàng ngàn quyển sách.

4 Lục trù: Hòm sách của Lục Cơ. Lục Cơ, người Ngô Quận nhà Tấn, tự Sĩ Hành, tinh thông Nho thuật, nổi tiếng văn

thơ; Đỗ khố: kho sách của Đỗ Hựu. Đỗ Hựu người thời Vạn Niên nhà Đường, tự Quân Khanh. Ông thích đọc sách, có soạn bộ Thông điển gồm hai trăm quyển khảo những sự việc từ nhà Đường trở về trước.

5 Bát văn: Tức Bát cổ văn, một thể văn dùng trong khoa cử thời Minh Thanh, mỗi thiên gồm tám bộ phận cấu thành: phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ, khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, thúc cổ. Đề mục chủ yếu lấy từ Tứ thư, nội dung cũng phải căn cứ vào Tứ thư tập chú của Chu Hy đời Tống.


Quế chi tảo kiến đằng phương; Hòe ấm dự tri tất tố.

Xuân vi xạ sách, tứ hải chiêm bảng thượng chi long; Đông các luân tài, quần anh nhượng văn trung chi hổ.

Bồi chính phủ nhi ngư đầu ngạnh khái, Tử Văn chi hỉ uẩn đô vong; Trắc gián viên nhi thiết diện phong lăng, Trường Nhụ chi chiêu huy mạc cố.

Cùng thông tận phó ư thanh thương; Trung ái chỉ thư ư khổn tố.

Loan pha(2) lưỡng nhập, diễn thanh luân(3) nhi nhật tán uyên du; Ô phủ(4) trùng đăng, trâm bạch bút nhi sương nghiêm hiến độ.

Đa niên trung ngoại phi dương; Nhất tiết hậu tiên sơ phụ.

Lục trù nhung trận, dư uy dương liễu chi trường; Ngũ thí dân dung, di ái cam đường(5) chi

thụ.


Cương trường biêu vãng tuế chi trường tùng; Đặc tháo ngật trung lưu chi để trụ.

Tam vinh hoàn phúc, nhân xưng lục địa chi thần tiên; Cửu lão(6) anh du, thời chủng

Hương Sơn chi bộ vũ.

Bì cao trùng thiết ư nhàn đường; Vãn cảnh tương an ư dật thú.

Viễn Quảng Bình ư khuyết hạ, tử thần hoài cảm gián chi anh phong; Khởi Tư Mã ư Lạc Trung, thương sinh vọng cập thời chi lâm vũ.

Mộ niên nhi khả đạo cụ kinh luân; Sổ nguyệt dự văn chính tương điều lũ.

Mỗi vị thọ tinh trường chiếu, bách niên thượng nghĩ ư quy linh; Hà kỳ Ky Vĩ(7) cự thôi, nhất chẩm hốt mê ư điệp vũ.

Y!

Vân tỏa hàn sơn, nguyệt trầm viễn phố.

Cục thiên tích địa(8) vòng ký thê linh; Lục hải cù sơn hạt thăng bi mộ.


1 Báo biến: Kinh Dịch có câu Quân tử báo biến (đấng quân tử như beo đổi vằn), ở đây ý nói văn vẻ rực rỡ hiện ra bên ngoài, chỉ tài văn chương.

2 Loan pha: Nơi vua ngự.

3 Thanh luân: Tơ xanh, chỉ lời nói, mệnh lệnh của vua hoặc những điều do vua chế định. Kinh Lễ có câu “Vương ngôn như ti, kỳ xuất như luân.” (Lời vua nói như tơ, ảnh hưởng ra như sợi lớn).

4 Ô phủ: Hán thư có ghi: “Những cây bách trong phủ Ngự sử thường có hàng ngàn con quạ, sáng bay đi tối bay về.” Về sau dùng chỉ phủ Ngự sử.

5 Cam đường: Chu Thiệu Công thi hành chính sự của Văn vương ở phương nam, trị chính khuyến nông, thường ngồi

xử kiện dưới bóng cây cam đường, cảm hóa được trăm họ. Nhân dân cảm mến ông nên đặt bài thơ Cam đường để ca tụng công đức.

6 Cửu lão: Chín ông già. Tục thông chí chép: Bạch Cư Dị khi đang làm Hình bộ Thượng thư xin về ở ẩn chùa Hương Sơn, tự xưng Hương Sơn cư sĩ, kết giao với Hồ Cảo, Cát Đông, Trịnh Cứ, Lưu Chân, Trương Hồn, Địch Kiêm Mô, Lư Trinh, Yên Tập đều là những danh sĩ cao tuổi. Người đời hâm mộ vẽ bức tranh chín cụ già gọi là Cửu lão đồ.

7 Ky Vĩ: Hai ngôi sao trong nhị thập bát tú. Trang tử: “Phó Duyệt đắc chi, dĩ tương Vò Đinh, yêm hữu thiên hạ, thừa

Đông duy, kỵ Ky Vĩ, nhi hóa liệt ư tinh.” (Phó Duyệt có đạo mới giúp được Vò Đinh thống trị thiên hạ, khi chết ngồi trên sao Đông duy, cưỡi sao Ky sao Vĩ ở cùng các ngôi sao khác), về sau dùng chỉ cái chết.

8 Cục thiên tích địa: Kinh Thi có câu: “Vị thiên cái cao, bất cảm bất cục; Vị địa cái hậu, bất cảm bất tích.” (Nói trời là cao, chẳng dám không khum chân; nói đất là dày, chẳng dám không đi chậm), ý nói lo sợ vì loạn lạc hoặc có tai biến.


Nhất sinh chi phong tài tiết tháo, băng tuyết đồng tình; Thiên thu chi sự nghiệp huân danh, kiêm tương bất hủ.

Tinh anh tuy dĩ liễm ư sơn hà; Văn vọng thượng chiêu thùy ư vũ trụ. Du du cảnh ngưỡng hưu phong; Cù cù dũ tăng bi trụ.

Tĩnh tuy đỉnh chủng, hận quyên trích chi vị thù; Hà vọng âm dung, khái canh tường(1) chi như đổ.

Kim tắc:

Linh minh cáo thiên, hành đồ tạm trú.

Giản mao chiểu chỉ, liêu tương bạc điện sổ bôi; Địa nghĩa thiên kinh, thứ biểu biện luân

vạn cổ.


Ô hô thống tai!

Dịch nghĩa


Ôi!


Văn tế Vũ Tướng công

(Bảng nhãn Lê Quý Đôn ở Diên Hà soạn)

Bóng xư ảm đạm, mưa gió đầy trời oán trách ai? Quê cũ thê lương, chim vượn suốt đêm như muốn ngỏ.

Than dài tiền bối đã về đâu? Gào lớn trời xanh sao chẳng thấu? Nhớ Tướng công xưa:

Thiên tính thông minh, thênh thang tiền lộ.

Chăng màn ba đông gắng học, gian nan Mã chẩm Xa nang; Trong tâm Nhị Dậu cố tìm, thông suốt Lục trù Đỗ khố.

Văn bát cổ thành vận, vườn tài nghệ cao siêu; Tiếng thơm dậy ngàn thu, rừng thơ văn độc

bộ.

Nhả ngọc châu nơi Hương, Hội, gió đông thỏa chí côn bằng; Tuôn giai cú chốn thi đàn,

núi bắc rỡ màu hổ báo.

Quế thơm sớm tỏa từ lâu; Bóng hòe dự tri ắt rò.

Vườn xuân cưỡi ngựa bắn tên, bốn biển xem rồng chiếm danh đầu; Đông các tuyển chọn anh tài, quần hùng phục tên đề bảng hổ.

Giúp triều đình thì trung thành cương nghị, Tử Văn vui giận đều quên; Làm Gián quan luôn thiết diện vô tư, Trường Nhụ vẫy mời chẳng ngó.

Vận cùng thông để mặc trời xanh; Niềm trung ái tràn đầy tạng phủ.

Vườn loan hai lượt, diễn thanh luân soi sáng đạo uyên thâm; Ô phủ lại vào, dùng bạch bút để giữ nghiêm pháp độ.

Nhiều năm khen ngợi khắp trong ngoài; Khí tiết xưa nay đều ngưỡng mộ.



1 Canh tường: Hậu Hán thư chép: “Xưa, sau khi vua Nghiêu chết, ông Thuấn tưởng nhớ, khi ngồi cũng thấy nơi tường, khi ăn cũng thấy nơi canh.”

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/07/2022